![]() |
Nhà văn Dương Duy Ngữ (1942-2019) |
Cứ tưởng được gọi về đi học ba năm, nhưng loanh quanh thế nào phải mất sáu năm. Ba năm học, ba năm chờ đợi, ba lần rời chuyển địa điểm đóng quân, cuối cùng trụ lại ở phường Vân Hồ. Vân Hồ có ngôi chùa cổ nổi tiếng, thời trước được xem như vùng ngoại ô, gần hồ Bảy Mẫu, đất ngụ cư của dân tứ xứ. Thêm chúng tôi nữa, ba mươi tuổi vẫn là học trò, làm nghề võ mà lại theo đòi nghiệp văn, nên không biết từ đâu sinh ra cái tên Quân khu Vân Hồ là để gọi cái lớp học của chúng tôi hồi ấy.
Sáu năm ấy, chúng tôi học được những gì? Rất nhiều, rất bổ ích, rất thích thú. Nhưng được nhất là được một cách nghĩ. Với một nhà văn, thay đổi một cách nghĩ là được nhiều lắm rồi, anh còn muốn gì hơn?
Sáu năm bên nhau, cuộc sống có lúc vơi lúc đầy, nhưng ngoài việc viết văn là công việc rất cần cá tính, chúng tôi còn có tình đồng đội. Cuộc sống người Việt Nam mình hay thật. Tình họ hàng, tình làng xóm, tình đồng chí, tình đồng nghiệp, tình đồng môn. Làm gì cũng đặt chữ tình lên trước. Một khi không còn chữ tình ấy, hỏi cuộc sống còn có ý nghĩa gì?
Sau sáu năm vừa là trại sáng tác vừa theo học Đại học Văn hóa, khoa Viết văn Nguyễn Du khóa I, vào một ngày cuối năm 1981, Quân khu Vân Hồ chúng tôi nhất loạt đổ bộ lên phố Lý Nam Đế, bổ sung vào các cơ quan Tạp chí Văn nghệ quân đội, Hãng phim Quân đội, nhà xuất bản Quân đội, Phát thanh và Truyền hình quân đội. Ngoài tình cũ nghĩa xưa, xuất hiện mối quan hệ mới mà ngôn ngữ ngày nay quen gọi là những đối tác. Anh Dương Duy Ngữ được cử về làm biên tập Nhà xuất bản Quân đội nhà dân, tôi và nhiều anh em làm việc ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Mỗi lần gặp nhau, anh Ngữ không quên bảo tôi, này, còn cái trường ca Biển tác phẩm ra trường, anh phải cố làm cho xong và gửi cho tôi đấy nhé. Đúng là có cái trường ca ấy thật, nhưng tôi mới viết xong một nửa. Tưởng cũng chỉ là câu nhắc cho vui thế thôi, không ngờ anh đeo bám tôi ghê quá. Suốt từ năm 1981 đến năm 1995, lúc mà tình hình Biển Đông chưa thành một vấn đề nóng như bây giờ. Khi ở số 4 Lý Nam Đế, hầu như tuần nào anh cũng sang với tôi. Từ năm 1990 tôi chuyển sang báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, anh Ngữ không sang Tòa soạn mà sang nhà. Nhà anh ở phường Thanh Xuân Bắc, tôi ở Thanh Xuân Nam, cách nhau mặt đường Nguyễn Trãi. Có hôm anh sang chơi, thấy tôi trải chiếu nằm khểnh ngoài hè, vừa vào tới sân anh đã quát: - Ô cái ông này. Người ta đang chạy khướt để hoàn thành kế hoạch xuất bản mà ông đủng đỉnh ngắm trăng thế này có chết không cơ chứ. Tôi chồm dậy, - Ôi bác Ngữ, ngồi xuống, ngồi xuống, uống cốc nước đã nào. - Không uống, ông phải hứa viết cho xong đi đã. - Khổ quá, sống với nhau bao nhiêu năm, bác chưa hiểu tính tôi à? Tôi đang viết đây. Tôi vẫn quen làm thơ thầm trong đầu, nhào đi nhào lại mãi rồi mới viết ra giấy bác còn lạ gì. - Đâu, ông đọc cho tôi đoạn ông vừa viết xem nào. Tôi đọc một mạch hơn 20 câu. Anh Ngữ lúc này không cần tôi mời cũng sẽ sàng ngồi xuống. Được, được, đảo có lính cát non thành Tổ quốc, được, cứ thế nhé, mà phải nhanh lên đấy, tôi về đây.
Để trả món nợ với anh Ngữ, mỗi ngày cứ hết giờ hành chính, đạp xe ra khỏi tòa soạn là tôi "làm". Có hôm say quá, tôi lạc vào làng Thượng Đình ngơ ngác không biết mình đang ở đâu. May gặp một người đứng tuổi, hỏi ra đường Nguyễn Trãi rồi đạp xe về nhà. Một lần khác, tôi đạp xe, cố ý nép sát vào bên phải, vừa đạp thong thả vừa "làm", bỗng nghe đánh rầm, rồi cả người cả xe ngã vật xuống. Lúc tỉnh lại, tôi thấy một bánh xe xích lô đang đi lên người mình. Bác xích lô vội kéo tôi đứng dậy, em xin lỗi, em xin lỗi, bác đòi bao nhiêu tiền em cũng xin trả. Một người mặt đỏ gay, giọng đầy hơi bia, trên ghế có hai đứa con nhỏ, một cảnh tượng không còn gì để nói. Khi tôi về đến nhà, vợ tôi kêu toáng lên, anh đi đứng thế nào mà mặt mày bê bết máu thế kia?
Khi Trường ca Biển ra đời, tôi sang cám ơn nhà xuất bản và anh Dương Duy Ngữ. Buổi tối, anh Ngữ sang nhà tôi, tặng một chậu địa lan.
- Đây là quà tôi đã dành từ lâu để tặng bác giúp tôi hoàn thành kế hoạch. Hoa Mặc lan hiếm lắm đấy. Lá nó bình thường, hoa của nó thì từ cuống đến cánh hoa toàn một màu đen, nó muốn giấu mình đi, nó là thứ hoa của các nhà nho, hoa của sự khiêm nhường.
Tết năm đó, chậu lan cho 5 bông. Đúng như lời anh Ngữ, sắc thì như cố dấu mình đi, còn hương thì thanh khiết rất đặc biệt. Ngồi thưởng hoa tôi nghĩ cái ông Ngữ này, bỗ bã thế mà thật thâm thúy. Ông ấy muốn dặn dò mình đây. Từ đó, mỗi lần sang chơi, anh Ngữ say sưa kể về cái thú chơi hoa, về các loại lan, cách chăm sóc, loại thì kiêng cữ đỏng đảnh kén từ miếng bùn khô phơi nắng mấy lần, loại thì rất kỵ những thứ nước uế tạp, loại dại nắng, loại phải đặt trong bóng râm. Nghề chơi cũng lắm công phu. Tôi bảo chuyện hay thế sao bây giờ mới kể. Chuyện hoa lá ấy mà, kể lúc nào chả được, là tôi để bác dồn tâm cho cái Trường ca Biển đấy, giờ xong rồi mới kể. Nhà tôi các cụ chơi lan mấy đời rồi. Ấy là tôi còn để rơi rớt đi nhiều thứ đấy. Nếu bác muốn biết thêm thì đây, tất cả vốn liếng tôi viết vào đây cả rồi. Nói đoạn, anh mở cặp lấy ra một tập truyện ngắn. Người trồng địa lan vừa mới xuất xưởng. Rồi liên tiếp, trong một thời gian ngắn, anh cho in tập truyện ngắn Mặc Phúc Xuyên, Rước chữ tiểu thuyết Người giữ đình làng, truyện Làng Gồ. Anh ba lần được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Hóa ra từ lâu, sau những tập sách viết về cuộc chiến đấu của lính phòng không trong chiến tranh phá hoại của Mỹ, anh đã kịp chuyển "địa bàn tác chiến" sang lĩnh vực truyền thống văn hóa, bề dày của hồn cốt dân tộc. Truyện ngắn Rước chữ một mỹ tục tuyệt vời ở quê anh, coi chữ như thần như thánh, được đặt lên ngai để rước trong đám hội làng. Không biết còn nơi nào trên thế giới có một sự tôn vinh chữ thiêng liêng đến như thế nữa không?
Một người làm việc với chữ cẩn trọng tinh tế đến như thế, nhưng sống ở ngoài đời thì cứ tự nhiên nhi nhiên, bộc trực, thẳng thắn, ruột để ngoài da, gặp cái gì chướng là "nổ" ngay nên cũng dễ mất lòng. Và có lúc cũng bị oan và thiệt nữa. Mỗi lần như thế, anh lại sang tôi, chủ động nói trước. Tôi biết, bác không phải bận tâm gì cả, rồi vỗ đùi cười thật sảng khoái.
Vào cuối năm ngoái, nghe tin anh ốm vào viện, tôi gọi điện hỏi bệnh gì, anh bảo đại tràng. Tôi đi tìm mua thuốc đại tràng đưa cho chị Chín vợ anh, anh uống 10 ngày thấy đỡ, rồi chuyển sang uống lá nhọ nồi. Tôi gọi điện nghe giọng nói khỏe dần lên, đã mừng. Giáp Tết, lại nghe tin anh mệt, tôi tìm về quê vừa thăm vừa chúc Tết anh. Hơn 40 năm chưa về làng Phượng Cách, hỏi thăm đến trưa mới tìm ra. Căn nhà khác quá, hóa ra mới biết anh Ngữ đã xẻ một nửa sân và vườn cho chú em. Anh Ngữ lại đang ở Hà Nội. Tôi bước vào nhà, cung kính đứng trước bàn thờ, nhìn lên bức hoành phi có bốn chữ Hán sơn son thếp vàng viết theo lối thảo rất đẹp: Đức Tín Thiện Nhẫn. Gian bên cạnh là tấm ảnh đen trắng khổ lớn, ghi lại hình ảnh Bác Hồ đến thăm và chia thuốc lá cho khẩu đội cao xạ 37 ly, trong đó pháo thủ Dương Duy Ngữ đội mũ sắt trẻ măng. Đó là năm 1967 ở mặt trận Phòng không phía Nam Hà Nội. Kỷ niệm thiêng liêng này đã được anh viết thành một bài báo rất cảm động, còn điếu thuốc Bác cho vẫn được anh gìn giữ như một bảo vật.
Sáng hôm sau, tôi tìm sang Thanh Xuân Bắc. Anh Ngữ vui lắm, nhưng không ngồi dậy được. Tiếng vẫn rõ. Môi tươi. Đôi mắt váng vất những sợi buồn. Tôi nắm tay anh hồi lâu. - Anh Ngữ ơi, năm nay chậu Mặc lan cho 3 bông cao vút, khỏe mạnh và hương thơm kỳ lạ anh ạ. - Mừng cho bác. Nhớ chăm chút cẩn thận nhé.
Ôi, tôi đâu ngờ đó là câu nói cuối cùng mà tôi được nghe từ một người bạn tri kỷ: Mặc lan Dương Duy Ngữ.
Nguồn: báo Văn nghệ số 14/2019