Trần Mai Ninh (30 tuổi) Trần Đăng "Người văn nghệ binh thứ nhất đổ máu ở chiến trường" (28), Thôi Hữu (28), Thúc Tề (30), Thâm Tâm (30), Hồng Nguyên (27?), Hoàng Lộc (28), Nguyễn Đình Lạp (40), Nam Cao (34), Dương Tử Giang (41), Lê Vĩnh Hòa (35), Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi (40), Lê Anh Xuân (28), Dương Thị Xuân Quý (28), Chu Cẩm Phong (30), Nguyễn Mỹ (35), Nguyễn Trọng Định (26), Vũ Đình Văn (22), Bùi Nguyên Khiết (36)…
|
Một số nhật ký, sổ tay ghi chép của ba nhà văn được tuyên dương Anh hùng : Nguyễn Ngọc Tấn, Lê Anh Xuân, Chu Cẩm Phong, và của nhà văn liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý không chỉ cho bạn đọc biết cuộc sống, cách viết của nhà văn, cũng như nhận ra mỗi người đang chuẩn bị cho những tác phẩm lớn hơn, mà nhân vật trung tâm luôn làm người viết khâm phục đến kinh ngạc là lòng yêu nước yêu cách mạng của người dân. Một trong những suy nghĩ trở đi trở lại trong những ghi chép của nhà văn Nguyễn Thi : "Nhân dân đối xử tốt, đầm ấm tới mức mà anh nghĩ mình có chết cũng không có gì đáng ngại. Một cử chỉ tốt làm cho con người vui, sung sướng và bỗng nhiên cảm thấy mình cao lớn hơn, can đảm hơn… Biết lấy gì đền đáp xương máu nhân dân đã hy sinh không tính toán để bảo vệ cách mạng, những năm tháng này? Mai ngày, đất nước thống nhất, cách tưởng niệm xứng đáng nhất chưa phải là xây những tượng đài to tát mà phải là tạo dựng đời sống no đủ, hạnh phúc cho những con người còn sống". Cuộc đời thật của nhiều nhà văn còn nhiều chuyện có nhiều ý nghĩa và hấp dẫn hơn những gì mỗi người đã viết. Nghĩ về cái chết của những văn nghệ sĩ, nhà văn Nguyễn Chí Trung từng viết: "Ai đó đã nói rất đúng rằng: Tài năng nghệ thuật là một cái gì đó có tính chất đơn nhất. Người sáng tác văn học mất đi là mất chính họ, buồn vui và khát vọng của một tâm hồn đơn nhất mà cuộc sống đã gieo lên đấy những hạt giống nảy mầm theo một dáng riêng chỉ riêng họ có, mãi mãi không bao giờ có lại". Nhiều năm qua, viêc tổ chức công bố các di bút của liệt sĩ như nhật ký Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, nhiều tập sách tư liệu người lính do nhà văn Đặng Vương Hưng chủ xướng đã cho chúng ta thấy một khả năng hiện thực là trong mấy chục vạn liệt sĩ đã hy sinh có rất nhiều người còn ấp ủ những tác phẩm văn chương hay mà chưa kịp thực hiện. Lớp chiến sĩ qua mấy cuộc chiến tranh, cả cuộc đấu tranh giúp bạn Campuchia và chiến tranh biên giới phía Bắc, về sau trở thành nhiều nhà văn với nhiều tác phẩm đáng chú ý càng khẳng định niềm tin đó.
Tạo hóa đã sinh ra mỗi cá thể người là một tạo phẩm duy nhất. Thế gian trở nên giàu có vô cùng nhờ những cá thể không lặp lại. Vì thế sự mất đi của mỗi người là không thể thay thế. Không gì thay thế được những người con của những bà mẹ cụ thể. Hàng chục vạn liệt sĩ đang nằm trong các nghĩa trang trải khắp đất nước gánh trên đó nỗi đau, nước mắt của cả mấy chục triệu ông bố, bà mẹ, vợ chồng, con cái cụ thể. Theo số liệu chúng tôi biết, đã có 1.146.250 liệt sĩ, trong đó chống Pháp là 191.605, chống Mỹ là 849.618, bảo vệ biên giới Tây Nam, Lào và Campuchia cùng bảo vệ biển đảo là 105.627. Trong các nghĩa trang đã quy tập có khoảng 300.000 mộ chưa biết tên, và vẫn còn hơn 200.000 người chưa tìm thấy hài cốt. Sau 50 năm đất nước thống nhất, về cơ bản việc quy tập phần mộ các liệt sĩ hy sinh trên các chiến trường vẫn chưa thể nói là đã hoàn thành. Mới đây, Nghĩa trang Liệt sĩ Vị Xuyên của các chiến sĩ hy sinh bảo vệ biên giới phía Bắc đợt 2 (1984 - 1989) đã được nâng cấp. Hàng năm, nhiều dịp lễ hội, các nghĩa trang đã có nhiều hình thức tưởng niệm. Nhưng năm tháng qua đi, đồng đội thưa vắng dần vì tuổi cao, vì lần lượt ra đi, vì phiên hiệu các đơn vị cũ có thể không còn, người thân gần gũi cũng ngày càng ít... có thể khiến không ít ngôi mộ thành vô chủ. Nhưng nằm dưới nấm mộ tốn rất nhiều công sức và tâm huyết mới tìm kiếm, quy tập về đó là những con người. Họ là ai, từ đâu ra đi, đã làm gì trước khi được xếp hàng trong những nghĩa trang này! Vì thế không nên coi trách nhiệm đối với các liệt sĩ đến đây là kết thúc. Phải làm sao để các nấm mộ sống tiếp đời sống của người đã nằm xuống!
Gần đây, nhiều tốp bạn trẻ đã dùng công nghệ để làm mới, làm sống động chân dung một số liệt sĩ. Đó là một việc làm rất đáng khuyến khích. Nhưng với sự trợ giúp của những người có khả năng viết, những chân dung ấy có thể kể lại câu chuyện cuộc đời mình, cuộc chiến đấu của mình và đồng đội. Ước gì sau những cuộc viếng thăm rộn ràng đông đúc nên có những người tìm hiểu sâu hơn để viết câu chuyện cuộc đời của những con người: Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình / (Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc) / Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc (Thanh Thảo)! Đó là những cuộc đời không ai giống ai, nên mỗi nghĩa trang trên đất nước sẽ là một kho chuyện kể bất tận. Mỗi nghĩa trang từ đó không chỉ là tập hợp của những nấm mộ im lặng, mà sẽ là một kho năng lượng tinh thần tiếp sức cho những người còn sống, là những con mắt ngày ngày dõi theo bạn có sống xứng đáng với những hy sinh vô lượng mà người ngã xuống hy vọng và ao ước không! Vẫn còn nhiều bí ẩn của chiến tranh ẩn dấu trong cuộc đời những liệt sĩ trong các nghĩa trang. Vẫn còn hàng triệu số phận gánh trên vai hậu quả chiến tranh. Còn gần 5 triệu nạn nhân chất độc Da cam đang ngày đêm chống chọi để sống tồn. Còn hàng nghìn cựu chiến binh trong các trung tâm điều dưỡng thương bệnh binh thần kinh ở nhiều vùng trên cả nước. Đó là di chứng họ mang trên mình nhiều năm sau chiến tranh. Không chỉ các căn bệnh hiểm nghèo, mà còn cả những vết sẹo tinh thần không thể mờ đi trong tâm trí. Hàng chục vạn gia đình những người lính trở về không tìm thấy hạnh phúc ngày đoàn tụ như họ từng ao ước. Còn là hàng triệu gia đình từng ở phía bên kia. Nghĩa là, dù đã lùi xa nửa thế kỷ, nhiều hệ lụy của chiến tranh vẫn hiện diện trong cuộc sống hôm nay. Hãy nhớ câu thơ của Thu Bồn: Nhưng tất cả sẽ trở thành vô nghĩa / Nếu những mộ bia kia không gọi được mặt trời!
Thời gian qua cây bút nữ Phan Thúy Hà qua các tập sách phi hư cấu của mình (Đừng kể tên tôi, Tôi là con gái của cha tôi, Gia đình, Đoạn đời niên thiếu, Những trích đoạn của các anh, Những ngày tháng năm) đã chọn một lối đi riêng để tìm về lịch sử đất nước. Thúy Hà đã lặng lẽ tìm gặp và ghi lại lời kể của những người sống qua những năm tháng chiến tranh và cách mạng trên nhiều miền, vào nhiều thời điểm khác nhau, ở hai ba phía của đất nước những năm còn chia cắt. Tác giả bằng trải nghiệm của một người lớn lên ở một làng quê heo hút sau chiến tranh, tiếp cận với một hiện thực khác, nơi cuộc sống hậu chiến ngổn ngang nhiều số phận phải tự lực bươn chải để tồn tại, bất chấp trong quá khứ, họ từng ở bên nào. Chiến tranh là vậy. Để có thể giành chiến thắng, mọi người phải gồng mình lên hết sức có thể. Người chỉ huy luôn cần phải quyết đoán, trước mọi khả năng, không phải lúc nào cũng chọn được và được chọn phương án tối ưu. Sự hy sinh của người lính là cái giá phải trả để có chiến thắng. Người lãnh đạo, chỉ huy không phải là thiên sứ, họ cũng chỉ là người,có thể hơn những người khác vài mặt nào đó, nhưng mệnh lệnh của họ nhất định phải được chấp hành. Không tránh khỏi trường hợp những quyết định ngay và luôn đó dẫn đến những hy sinh mà sau này mới thấy là có thể tránh khỏi. Chiến thắng cuối cùng của chúng ta đã biện minh cho cả những sự lựa chọn không đáng có đó. Nhưng chính vì đã là những người còn sống và hưởng thụ nền độc lập, mà hậu thế phải lắng nghe câu chuyện của những người hy sinh để đất nước có hòa bình. Một cách tiếp cận và cách viết hiện thực chiến tranh như của Phan Thúy Hà là đáng quý và cần thiết.
Trong không gian và thời gian thoáng rộng của văn hóa, văn nghệ thời mở cửa và hội nhập, trên các kênh truyền thông đa phương tiện, những tác phẩm ra đời trong chiến tranh và cách mạng vẫn giữ được một vị thế xứng đáng. Nhiều tìm tòi của lớp trẻ, biết tựa vào và làm mới những tác phẩm thời trước vẫn nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt. Nhưng còn nhiều, rất nhiều câu chuyện về số phận con người mà trong chiến tranh, các văn nghệ sĩ chưa thể, chưa được phép, chưa thể nhận ra, vì phải dồn tất cả cho mục đích chiến thắng. Thời nay lớp trẻ biết trân trọng quá khứ chiến tranh của cha anh và có khát vọng xây dựng đất nước phát triển giàu mạnh sẽ có cơ hội viết tiếp những trang sử giữ nước hào hùng của dân tộc. Và đó là một cách "đền ơn đáp nghĩa" xứng đáng cho những người đã đổ máu xương vì nền độc lập tự do của nước nhà.