Trong nhóm trí thức văn nghệ sĩ quê gốc Thái Bình, hiện đang sống ở Sài Gòn, Lương Minh Cừ là người tôi quen và kết thân với anh từ hơn bốn mươi năm trước.
Tôi quý yêu anh ở chất quê chân mộc của con người sinh ra và lớn lên trên “đồng chiều cuống rạ”, ở chất dũng cảm, kiên cường của tháng năm khoác lên mình áo lính, ở cái lịch lãm, hào hoa, trí thức của một sinh viên đại học văn khoa, một phó giáo sư - tiến sĩ triết học, ở tài quản lí, lãnh đạo của một vị hiệu trưởng và cái chất lãng mạn, bay bổng của một thi nhân.
Thơ Lương Minh Cừ chủ yếu viết về những năm tháng chiến tranh. Người lính trong thơ anh mang theo cả quê hương trên đường ra trận: Mười năm đánh giặc tôi mang/ Dáng hình em với xóm làng tôi yêu/ Hoàng hôn xưa, ngọn gió chiều/ Mảnh sân gầy đọng sương nhiều giọt rơi (Bây giờ… bất chợt).
Đấy là, tâm trạng khi đứng trước nhà mình sau tháng năm xa gặp lại. Hoặc, khi đang còn là lính trận, trong buổi quân hành vượt “Qua cánh đồng Chum”: Đường rừng bề bộn lá rơi/ Nhấp nhô chum đá… một thời vàng son/ Dấu thời gian đã xói mòn/ Thương cho lịch sử, giờ còn đồng Chum.
Hoặc, khi đứng giữa trận tiền, bắt gặp “Một tổ chim trong tầm xoáy bom rơi”:
Một tổ chim trong tầm xoáy bom rơi
Đất nước gọi các anh đi giữ gìn hạnh phúc
Sự trọn vẹn lại bắt đầu từ những gì nhỏ nhất
Hóa tình yêu nối những chân trời…
|
Quả tình, những nỗi niềm day trở khi gặp lại ngôi nhà mình sau bao nhiêu năm xa cách, hay chỉ là một tổ chim lạc trong tầm bom giặc, đã tạo nên bao nhiêu vang chấn trong tâm khảm thi nhân. Có điều, mọi giãi bày, mọi suy tư, kiến giải của Lương Minh Cừ đều lắng, đều dung chứa và nén dồn trong cái bọc của sự bùng nổ của cảm xúc.
Thơ Lương Minh Cừ bám chặt hiện thực. Bám chặt ngoại giới. Với anh, hiện thực là cái “mỏ lộ thiên” để người viết tung hoành cày xới. Hiện thực của “cái gặp, cái thấy” được lấy làm sức cứu cánh cho thơ vững tựa và phát sáng. Cứ nhìn vào các tiêu đề thơ của anh chúng ta cũng thấy Lương Minh Cừ muốn ôm trùm “thế giới ngoại giới” rộng lớn, để đem về và có được cái “thế giới hồn mình”. Anh ý thức rất rõ rằng, dù ai đó có đại mộng, đại giác cũng không thể đem tâm hồn mình mà thay thế cho cái vũ trụ “vô biên độ” kia được. Và, từ “hiện thực nắm cầm”, Lương Minh Cừ đã tìm lấy cái “hiện thực hoài nghi”, “hiện thực của hồn mình” trong tỏa lan, vang động. Ví như: Khoảng trời anh và khoảng trời em/ Cùng hội tụ về miền đất ấy/ Đất đánh giặc những ngày lửa cháy/ Một khoảng trời thành hai nửa tiền phương… “Hai nửa tiền phương” ở đây là gì? Đấy phải chăng, là cái phát hiện. Cái mà ta “ngộ” ra rằng, giữa những ngày giặc giã, cả đất nước, cả anh, cả em, và ai nữa… Tất cả chúng ta đều cùng nhau chia lửa. Đều chịu chung mất mát, đau thương. Đều không một ai có thể đứng ngoài cuộc chiến. Rồi “Khi một thoáng với Huế” thì:
Cứ nghe Huế đẹp, Huế thơ
Anh chưa đến Huế bao giờ Huế ơi
Tháng Năm, mưa bụi lưng trời
Cơn mưa cột trái tim người vào nhau
Thơ Lương Minh Cừ luôn đi từ cái rộng, cái thế giới trực giác, để những gì thơ được “đẻ ra”, được gọi về đều có từ đối thoại, diện kiến. Bởi, đi từ “cái rộng” để quay về “cái hẹp”. Cái góc nhỏ của “tầng chìm sâu hồn mình” đặng, mở ra “cái rộng” hơn trong tư duy, tâm tưởng. Mà, thơ ở đây, luôn cần bộc lộ một năng lực tạo dựng một “không gian thơ” qua cách kể, cách trực tả, tự sự.
Tự sự để tái tạo, sáng tạo. Tự sự để có “sự”, có “cảnh huống”. Tự sự để “sinh sự, sự sinh”. Tự sự để tìm được những cảm xúc, những liên tưởng. Những cách vận động thơ… Và cuối cùng, tự sự để có được “cái tình, cái giá trị phản ánh cùng giá trị thông điệp” của người cầm bút.
Có thể thấy sự hội tụ, kết tinh ấy khi nhà thơ đứng trước “Mùa xuân ở ngoại ô”. Và, đây là “cảnh”:
Dòng sông xanh nón che nghiêng
Chở riêng màu nước với riêng màu trời…
Rồi, từ “cảnh” ấy, được sinh “cảnh” nối vào, cảnh tiếp theo:
Ngỡ như lửa đỏ một vùng
Vạt trời bông giấy chợt bùng cháy lên
Phải mùa xuân đến cùng em
Mà từ mặt đất mọc lên mặt trời
Và, đây là “cảnh” sinh “sự”. Rồi, “cảnh và sự” sinh cảnh, “sinh tình”:
Đi tìm em giữa bao la
Lẫn trong màu mắt… phù sa ngoại thành
Mùa xuân dan díu cùng anh
Để cho người với đất lành… sinh sôi
Hoặc, trong bài Anh đi giữa mùa hoa tam giác mạch, bốn câu thơ “thi nhãn” hay đây cũng là bốn câu thơ của “tâm thi,” thật mà khó rạch ròi: Anh đi giữa mùa hoa tam giác mạch/ Một rừng hoa bất tận đến chân trời/ Những bản người Dao trên lưng chừng núi/ Trong chiều vàng khói tỏa cuốn về xuôi. Hoặc Anh bắt gặp giữa miền tam giác mạch/ Những em bé ngây thơ có đôi mắt biết cười/ Những em bé H’mông chạy đùa trên đồng hoa rực rỡ/ Các em là hoa tam giác mạch, đấy em ơi…
Lương Minh Cừ với thơ, với cách đi riêng, cách bám chặt “thế giới thứ nhất” đã tìm ra “thế giới thứ hai” - thế giới của hình ảnh thi ca cất cánh. Chính điều này đã tạo nên “cái tạng thơ Lương Minh Cừ”.
Khi ôm trùm hiện thực, lấy “đối thoại hiện thực” làm nền, Lương Minh Cừ ít khi tách mình ra khỏi thế giới xung quanh, để có khi chỉ còn lại chính mình, với riêng cõi hồn mình, trong tâm tình, “độc thoại”. Song, ở không ít bài trong lối đi ấy, Lương Minh Cừ cũng để lại một chiều sâu với cái bất ngờ ở cái “đế,” nơi “cái kết” mà bài thơ khép lại. Ví như: Ở đâu miền cực lạc/ Mà nhân thế yên lòng/ Vẫn tiếng chuông thảng thốt/ Rót mãi vào chân không (Tiếng chuông chùa Chân Không). Hoặc:
Nửa đời người mới gặp nhau
Ngày xưa ai biết có bầu trời xanh
Hở em, đất ngọt, mây lành
Sao em vương giữa đời anh… ngược chiều
(Ngược chiều)
Và:
Người đi chân bước không đành
Bóng tre xanh khuất bóng mành… nhìn theo
Em về lễ hội quê chèo
Đừng vô tình, dẫu chùa Keo… vô thường
(Em về lễ hội chùa Keo)
Là thi sĩ - nhà giáo, phần lớn cuộc đời mình, Lương Minh Cừ dành cho học trò, trường ốc, cho sự nghiệp giáo dục, “trồng người” cao cả. Với anh, thơ đâu phải sự “ngoại tình”, đá đưa”, hời hợt. Thơ là “tâm tình - máu thịt, là chính đời mình trong nỗi niềm sẻ chia. Với những gì có được ở dọc đường cấy gieo và hái gặt ấy, Lương Minh Cừ đã thật sự khai sáng chính mình, một “gương mặt thơ” được nhiều bạn đọc, đã và đang trân trọng, quý yêu.
-----------
Bài viết cùng chuyên mục:
Mệnh giá của thương yêu Nguyễn Thành Tuấn - Người đang trên đường “Nhà thơ bất đắc dĩ…” Mấy ý nghĩ - Lời tựa tập thơ "Từ ấy" của nhà văn Đặng Thai Mai Thi sĩ và "lưng túi thi ca" |