Gió lên về gác Sơn Nam Áo thơ gió thổi, đèn tàn gió lay Ý thơ lộng gió còn bay Ba ta, ba chiếc bóng gầy, đèn khuya Đêm dài tù túng đi về Ngọn đèn trang giấy cùng chia cái nghèo Dầu hao, bấc lụi, gió vèo Cháo rau ấm bụng thơ gieo ấm lòng Gác Sơn Nam, gác đèo bòng Có ba mái tóc bềnh bồng bên nhau Gió đời chưa nổi biển dâu Gió trời thổi mãi mái đầu nằm mơ |
“Gió lên về gác Sơn Nam/ Áo thơ gió thổi, đèn tàn gió lay/ Ý thơ lộng gió còn bay/ Ba ta, ba chiếc bóng gầy, đèn khuya/ Đêm dài tù túng đi về/ Ngọn đèn trang giấy cùng chia cái nghèo/ Dầu hao, bấc lụi, gió vèo/ Cháo rau ấm bụng thơ gieo ấm lòng/ Gác Sơn Nam, gác đèo bòng/ Có ba mái tóc bềnh bồng bên nhau/ Gió đời chưa nổi biển dâu/ Gió trời thổi mãi mái đầu nằm mơ”. Bài Gió gác Sơn Nam của thi sĩ Trần Huyền Trân, in năm 1943, ngay dưới nhan đề tác phẩm có chua dòng chữ: “Kỷ niệm với Thâm Tâm và Nguyễn Bính”. Lẽ dĩ nhiên, dòng chữ này chính là yếu tố quan trọng nhất để ta có căn cứ mà cho rằng “ba chiếc bóng gầy”, “ba mái tóc bềnh bồng” trong bài thơ chẳng phải ai khác ngoài ba nhà thơ đã có tên trong Thi nhân Việt Nam: Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và Nguyễn Bính. Theo hồi ức của một vài văn thi sĩ tiền chiến, đây là ba người bạn rất thân, họ thường nhóm nhau ở vùng Cống Trắng, Khâm Thiên, hoặc sau ga Hà Nội hồi những năm 1940. (Gác Sơn Nam có lẽ là toà soạn của tuần báo Bắc Hà mà Trần Huyền Trân làm chủ bút một thời gian và Thâm Tâm là một trong những cộng tác viên đắc lực nhất). Không những thế, bằng một mảng tác phẩm rất riêng của mình, họ còn tự biệt ra thành một phái trong Thơ Mới: phái “áo bào gốc liễu” (tôi không nhớ chính xác ai là người đã định ra cái tên này?). Có thể, về ý nghĩa văn học sử, phái “áo bào gốc liễu” còn xa mới có được tầm vóc như “trường thơ Loạn” của các nhà thơ miền Trung Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, nhưng dù sao thì nó cũng không lặp lại ở các nhóm phái thơ ca khác. Bởi thế, nó cũng đã góp phần tạo nên sự đa diện trong và cho Thơ Mới.
Cụm từ “áo bào gốc liễu”, ngay lập tức gợi cho người ta ấn tượng về hình ảnh một đấng trượng phu, một tráng sĩ, một anh hùng của thời chinh chiến nào đó đã lùi xa trong quá vãng. Hình ảnh kiêu hùng, và trong một số trường hợp, phảng phất nét kiêu bạc của một cá nhân xuất chúng vượt lên trên nhân quần, cô độc giữa những ngổn ngang của thời cuộc. Con người kiểu ấy xuất hiện khá đậm trong thơ của các thi nhân thuộc dòng thơ biên tái đời Đường, và phần nào đó, trong thơ Lý Bạch. Thơ Việt Nam thời trung đại có vẻ như cũng không nhiều lắm hình ảnh nhân vật loại này. Thế mà lạ, trong Thơ Mới lãng mạn, khi đại đa số các nhà thơ cởi mở cõi lòng để đắm say với ái tình chàng chàng thiếp thiếp, để tận hưởng cảnh thiên nhiên đẹp và những giấc mơ viễn xứ, hoặc ít ra, để trốn vào làng quê Việt với dăm ba nét xưa cũ còn sót lại trong cuộc thay da đổi thịt lớn lao, thì con người “áo bào gốc liễu” lại xuất hiện, như một nghịch phách, qua thơ Nguyễn Bính - đặc biệt là qua thơ của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân - và khiến người ta phải chú ý. Chú ý vì cái dư vị cổ kính mà các tác giả đó đã tạo được qua thể “ca”, “hành” mượn từ cổ thi. Chú ý vì giọng điệu ngang tàng và phẫn hận trong lời thơ, một giọng điệu quả thực không mấy phổ biến trong Thơ Mới.
Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Thâm Tâm. |
Trước hết, hãy nói tới Nguyễn Bính, tác giả vốn được mặc định như là “thi sĩ chân quê”, như là người được sinh ra để cất lên những khúc hát thương cho làng quê Việt đang có nguy cơ bị xâm thực và biến mất trước ngọn triều thành thị hóa. Giọng thơ Nguyễn Bính là giọng thơ thương cảm, “mùi mẫn”, hợp với chủ nghĩa mủi lòng của đại đa số độc giả Việt Nam (điều này giải thích tại sao thơ Nguyễn Bính lại có sức phổ biến rộng và lâu bền đến thế). Thế nhưng, ở bài thơ có tên Bài hành phương Nam, viết năm 1943, Nguyễn Bính cho thấy một giọng thơ đã khác đi rất nhiều. “Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?/ Cốt nhất vui cười trọn tối nay/ Rẫy ruồng châu ngọc thù son phấn/ Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay!”. Đó là hình ảnh của một anh hùng giữa đám quần thoa, một anh hùng đang phóng túng hình hài trong cơn bế tắc tinh thần. Thậm chí có thể nói, đó là hình ảnh “lộn trái” của người anh hùng trong cổ thi: “Hỡi ơi, Nhiếp Chính mà băm mặt/ Giữa chợ ai người khóc nhận thây?/ Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?/ Mơ gì Ap Tiết thiêu văn tự/ Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây!”. Phá sản trong nỗ lực tìm kiếm sự đồng hội đồng thuyền từ những nhân vật anh hùng của nước Trung Hoa thuở trước, người “anh hùng” Việt Nam thời tư sản hóa rốt cuộc phải cay đắng đối mặt với tình thế của mình: “Ta đi nhưng biết về đâu chứ?/ Đã dấy phong yên khắp bốn trời/ Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ/ Uống say mà gọi thế nhân ơi/ Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ/ Ta với nhà ngươi cả tiếng cười/ Dằn chén hất cao đầu cỏ dại/ Hát rằng phương Nam ta với ngươi/ Ngươi ơi! Ngươi ơi, hề ngươi ơi/ Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh/ Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi”. Đáng tiếc (có thể nói đáng tiếc chăng?), những bài như Bài hành phương Nam là cực hiếm trong toàn bộ thi nghiệp của Nguyễn Bính.
Với Trần Huyền Trân, có lẽ nên nói rằng đó là tác giả có cái bút danh “đượm mùi váy áo” nhưng lại sở hữu một giọng thơ khá rắn rỏi, gân guốc. Hoài Thanh, khi làm “Thi nhân Việt Nam” vào năm 1941, mới chỉ ghi nhận Trần Huyền Trân như là tác giả của “những vần thơ hiền lành và ít nói yêu đương”, và bởi thế, “sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh em em”, ông đã “tìm thấy ở đây cái thú của người đi đổi gió”. Thật lạ, chỉ cần đọc một bài như Độc hành ca (1940) là sẽ thấy Trần Huyền Trân không “hiền lành” chút nào: “Giao tình tợp chén chiêm bao/ Ngựa Hồ thôi gió bấc nào đạp chân/ Đây người áo đỏ tầm xuân/ Đấy đi tang trắng mấy lần trùng quan/ Không dưng rét cả dây đàn/ Này cung dâng áo ngự hàn là đây/ Nhớ xưa cùng dỗ bụi giầy/ Vỗ đùi ha hả thơ mày rượu tao/ Say đời nhắm lẫn chiêm bao/ Thơ ra miệng dại, rượu vào mắt điên”. Đây đích thị là khẩu khí của một hào khách ngang tàng, lấy giang hồ làm nhà, lấy bằng hữu làm vui, coi tiếng “khà” thích khẩu còn hơn cả trùng trùng danh lợi. Nhưng, cũng rất dễ nhận thấy ở Độc hành ca cái cảm thức về sự bế tắc, tù túng, ngột ngạt, không lối thoát: “Nẻo về chật chội áo cơm/ Dặm đi động lại từng cơn lá rừng/ Lòng ta không sóng không dừng/ Thơ vang lại vướng mấy tầng cửa quan”. Bởi thế, rất logic, tác giả đã kết bài thơ của mình bằng những câu chất chứa đầy tâm trạng phẫn hận, những câu thơ như nhỏ máu: “Chiều nay nhấc chén lên môi/ Không dưng tưởng nhắp máu người tanh tanh/ Khóc nhau ném chén tan tành/ Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ/ Cố nhân, ới hõi người xưa/ Dọn đi tâm sự, đây mưa về rừng”. Tới năm 1943, trong bài Say ca, Trần Huyền Trân đã chuyển hóa sự phẫn hận ấy thành tiếng cười gằn, cay đắng, kiêu bạc: “Mắt trong ví chọc cho mù/ Thì đen bạc đấy cũng ừ vàng son/ Cười xòa giờ vẫy nước non/ Tay chừng cũng ngượng chẳng còn gió bay/ Này thôi đấy! Này thôi đây/ Này thôi kia nữa, hớp này thì thôi/ Men lên ví chuyển lại thời/ Lũ ta đội ướt đêm dài với nhau”. Nguyễn Sĩ Đại, trong bài viết “Từ những mưa đêm lều vó đến vô tận nguồn hương” có nhận xét khá tinh tế: “Cái lạ là ông dùng nhiều khẩu ngữ, khẩu ngữ của một anh chàng phẫn chí mà vẫn toát lên được cái tao nhã khí khái của một thái độ sống tích cực” (Thơ Trần Huyền Trân, NXB Văn học, 2001, tr.253). Quả có vậy, trong tiếng cười cay đắng kiêu bạc của “Say ca”, hình như đã ẩn chứa một tâm thế sẵn sàng hành động (không nên quên rằng chính vào năm 1943, nhà thơ Trần Huyền Trân đã tham gia Việt Minh và Hội Văn hóa cứu quốc).
Thâm Tâm, nhân vật cuối cùng trong phái “áo bào gốc liễu”, là tác giả đã quá nổi tiếng với bài “Tống biệt hành”, nổi tiếng đến mức đôi khi làm người ta quên mất rằng ông còn là tác giả của những bài thơ rất đặc sắc khác, như Tráng ca, Vọng nhân hành, Can trường hành (đều viết trong năm 1944). Đọc thơ Thâm Tâm, ở những đoạn như “Phiếm du mấy chốc đời như mộng/ Ném chén cười cho đã mắt ta/ Thà với mãng phu ngoài bến nước/ Uống dăm chén rượu quăng tay thước/ Cái sống ngang tàng quen bốc men” hay: “Thi với người nằm say bóng liễu/ Thi với người chờ mong kẻ rượu/ Lòng thênh thênh nhẹ gió thu sơ/ Nghĩa khí ngàn năm gió chẳng mờ” (Can trường hành), tôi không khỏi liên tưởng tới thi tiên Lý Bạch với những Tương tiến tửu, Hiệp khách hành lưu danh thiên cổ: cũng thái độ khinh thế ngạo vật ấy, cũng hào khí bừng bừng ấy, không khác! Từ một phía khác, khác với Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân, có thể thấy khá rõ ở thơ Thâm Tâm nổi lên chủ yếu không phải là sự cay đắng, phẫn chí, mà là một tinh thần sục sôi hành động, một cảm hứng xóa cũ tạo mới không gì ngăn được. Bình bài Tống biệt hành (chắc chắn là được viết trước năm 1941), Hoài Thanh nói rằng nó “đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”, nhưng ở các bài thơ sau này của Thâm Tâm thì chẳng có gì bâng khuâng khó hiểu cả. Hãy đọc: “Nện cho vang tiếng chuông chiều/ Thù đem sức sớm đánh kêu trống đình/ Thở phù hơi rượu đua tranh/ Quăng tay chén khói tan thành trời mưa/ Dặm dài bến đón bờ đưa/ Thuyền ai buồm lái giúp vùa vào nhau/ Kìa kìa lũ trước dòng sau/ Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương” (Tráng ca); và đọc: “Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch/ Ta ghét hoài câu nhất khứ hề/ Ngoài phố mưa bay xuân bốc rượu/ Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê/ Ơi ơi bạn tác ngoài trôi giạt/ Chẳng đọc thơ ta tất cũng về” (Vọng nhân hành). Những câu thơ ấy, ở bên trong cái vẻ ngoài mang dáng dấp cổ thi của nó, nếu không rơi vào suy diễn quá mức, tôi cho rằng đó chính là những câu thơ cách mạng, theo nghĩa: thơ về và vì một sự thay đổi thật lớn lao. (Xin lưu ý đến thời điểm ra đời những bài thơ này của Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình: năm 1944, đêm trước của Cách mạng Tháng Tám).
Xin nhắc lại một lần nữa để tránh mọi sự hiểu nhầm: trên phương diện văn học sử, thơ của phái “áo bào gốc liễu” có thể không phải bộ phận tác phẩm thực sự quan trọng (với cả phong trào Thơ Mới, hay với riêng một tác giả như Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân cũng vậy). Thế nhưng, nó độc đáo, nó góp phần làm thành sự đa dạng cho diện mạo thơ Việt Nam trước năm 1945, và tất nhiên chúng ta sẽ không thể có nhận thức đầy đủ về một giai đoạn trong thơ hiện đại nếu gạt nó ra khỏi sự quan tâm. Ai đó nói rằng công của thi sĩ Vũ Hoàng Chương là nâng cái chán chường lên thành thơ, tôi cũng xin được “nối điêu” bằng một ý: công của phái thơ “áo bào gốc liễu” là đã nâng cái bất bình lên thành thơ, mang đến cho cái bất bình một chiều kích mỹ học nào đó. Đúng như một câu của Trần Huyền Trân trong bài Độc hành ca: “Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ”.
Bài viết được in trong sách Neo chữ - Nguyễn Hoài Nam