Dân còn đang thắc mắc thì thầy nói: “Nếu anh không bị rắn cắn thì mình đâu gặp nhau. Nếu tôi đến chậm mươi phút thì cũng như không. Duyên đấy thôi.” Dân gật đầu: “Đã là duyên, cho em được nhận thầy làm anh kết nghĩa”.
Sau này, thầy Hòa kể thêm: “Tối hôm ấy nếu không gặp ông Thọ, thì tôi không được phép vào thôn cũ, sẽ không cứu được chú.” Vậy là thêm cái duyên nữa.
Đêm ấy, trời vừa sập tối thì một thằng bé 12 tuổi chạy đến nhà thầy Hòa khẩn thiết xin ông đến cứu. Thầy lang Hòa nổi tiếng là “thầy rắn”, ông chữa bệnh mát tay. Nhiều người đồn thầy có “ngọc rắn” hút được chất độc. Thời chiến, vùng xôi đậu Bù Nho - Bù Gia Mập này nổi tiếng ngày Cộng hòa, đêm Cộng sản. 7 giờ tối kẻng giới nghiêm, dân không được ra đường nhất là những người sống trong vòng rào ấp chiến lược. Nhưng nghe có người bị nạn, thầy Hòa tức tốc đi ngay. Ông và thằng bé đang năn nỉ xin lính gác được qua cổng ấp chiến lược thì gã thiếu úy bảo an đi tới, hắn lườm lườm nhìn thầy Hòa: “Bộ tính tiếp tế hay liên lạc với Việt cộng hả? Đừng qua mặt tui. Mở túi ra coi?” Thầy Hòa mở túi nhỏ đeo trên vai ra. Tên bảo an săm soi: “Có ngọc rắn không đây?...” Thầy Hòa lắc đầu: “Thuốc chữa nọc rắn thì có. Cứu nhân hơn cứu hỏa. Sếp cho tôi đi.” Gã bảo an kéo thằng bé lại gần đèn pha: “A!... Thằng này là con lão Tư An ở dốc Suối Cạn. Anh nó theo du kích.” Hắn nhéo mạnh tai thằng bé: “Mày là du kích con hả?” Thằng bé sợ hãi lắc đầu. Thầy Hòa nói: “Thôi mà sếp! Chị nó bị rắn độc cắn. Nghe kể máu tươm ra ở mắt mũi, nặng lắm!...” - “Tui nhứt quyết không cho đi. Ai biểu gia đình nó không chịu vô ấp chiến lược thì phải ráng chịu.”
![]() |
Hình ảnh minh họa. Nguồn pinterest |
Vừa lúc đó thì sĩ quan đồn trưởng và hai lính đi tuần tới. Sau khi nghe trình bày, viên đại úy tên Thọ hỏi thầy Hòa: “Ông không sợ chết sao? Việt cộng gài mìn tùm lum! Vô đó dễ bị đạn lạc, bắn tỉa...” - “Chết ai mà không sợ, nhưng tôi làm nghề y thì cứu người trên hết. Biết nguy hiểm tôi vẫn đi, vì nghĩ đi chưa chắc tôi đã chết. Nhưng không đi thì người bị nạn sẽ chết chắc.”
Viên đại úy gật gù, nhìn thẳng vào mắt thầy lang: “Tôi hỏi thật, nếu người ông sắp cứu là Việt cộng thì sao?” Thầy Hòa cứng cỏi: “Con bò bị rắn cắn tôi còn cứu huống chi con người. Các ông bắn nhau, ai chết thì thôi, ai bị thương tôi gặp là cứu liền. Giả thử ông là sếp Việt cộng mà hỏi tôi có cứu lính ngụy không? Tôi cũng nói vậy thôi.” Viên đại úy cười: “Hay! Vậy ông mau đi. Tôi khoái người nói thật, chứ ông nói gặp Việt cộng mà không cứu thì tôi không tin đâu. Mai tôi sẽ kiểm tra.” Ông ta nói xong quay qua thằng bé: “Mày còn nhỏ lo mà học nghe.”
Trưa hôm sau, viên đồn trưởng và gã thiếu úy bảo an dẫn lính xộc vào nhà ông Tư An. Khi mở băng quấn và mớ thuốc đắp quanh cổ chân chị thằng bé ra, thấy hai vết rắn mổ đã khô máu. Chúng không biết đó là thủ thuật của thầy rắn và sự hy sinh của cô gái lãnh chịu hai mũi dao châm. Viên đồn trưởng hỏi: “Cần lên bệnh xá không?” Ông Tư An - cha cô gái chắp tay: “Cảm ơn đại úy, chắc khỏi cần. Thầy Hòa đã chữa thì phải lành thôi.” - “Ờ... Ông lo thu dọn vô ấp chiến lược mau nghe?” - “Dạ... Thầy để cho qua năm... thu hoạch xong...” - “Tôi nói lần cuối. Qua năm ông không đi tôi cho lính tới hốt đó."
Đời có vay trả, trước sau. Gã thiếu úy bảo an đã chết trong chiến tranh, còn đại úy Thọ sau giải phóng đi học tập cải tạo. Dân có lần đi công tác ghé qua thăm. Dẫu sao thì người sĩ quan Cộng hòa này cũng đã góp phần cứu mạng anh. Cái chính là Dân thấy ông ta “chơi được”.
Ông Thọ sau đó đi Mỹ theo diện HO, cứ vài năm trở lại thăm quê hương, dạo sau này năm nào cũng về ăn Tết và trú đông. Lần nào về ông Ba Thọ cũng tìm gặp Dân và thầy Hòa, họ kết nghĩa anh em. Ba Thọ nhiều lần nói với Dân: “Tôi được về sớm là nhờ chú bảo lãnh. Nói thật lúc đó tôi khoái thầy Hòa chớ đâu cần biết ổng cứu ai.” Thầy Hòa mỉm cười. Ba Thọ móc trong túi xách ra cặp rượu Tây: “Tặng anh Hai và chú Tư mỗi người một chai uống Tết. Giờ anh Hai cho anh em uống rượu rắn được không? Tôi khoái thứ đó hơn.”
Ba người nhâm nhi đón Tết nhắc lại chuyện xưa. Thoắt cái đã bốn chục năm rồi, họ nhìn nhau... Ngày xưa phong độ thế mà giờ ai cũng bạc phơ mái đầu. Thoắt cái nữa có còn gặp nhau không?
“Tôi tính qua năm về luôn thôi - Ba Thọ nói - Già rồi, ham hố gì nữa, không đâu bằng quê hương”.
Chiến tranh qua đã lâu rồi, ác mộng đã tàn, thời gian xóa dần những nỗi đau, coi như số phận. Giờ ba người chỉ muốn dành cho nhau những niềm vui. Dân sinh năm Quý Tỵ, trong ba người thì Dân trẻ nhất mà đã sáu mươi năm cuộc đời, một vòng hoa giáp có thể tổng kết đời người được rồi, những năm sau nếu còn thì cũng nhẹ nhàng không đáng kể - Thầy Hai Hòa có lần bấm số cho Dân nói vậy.
Những kỷ niệm không thể quên cứ lần lượt hiện về, giờ Dân mới hỏi thật Ba Thọ “Hồi đó chắc anh Ba nghi lắm nên mới dẫn lính tới nhà tui kiểm tra phải không?” Ba Thọ gật: “Cũng có... Cái nghề dính dáng chỉ huy như tôi thì cũng phải có chút máu Tào Tháo. Nhưng tôi nghĩ nghi ngờ người ta thì mình được gì? Thà vô tư ngủ cho khỏe. Chuyện đó tôi định cho qua, nhưng sáng hôm sau thằng Tùng bảo an cứ nhắc tôi kiểm tra. Tôi định để nó đi, bụng nghĩ nếu có gì thì thầy Hòa sẽ đổ thừa cho thằng nhỏ. Nhưng mình cũng nên đi để có gì còn xử lý...”
Thầy Hòa mỉm cười: “Nếu chị thằng nhỏ không bị rắn cắn, anh xử lý cách nào?” Ba Thọ trầm ngâm: “Tôi sẽ hỏi anh chữa cho ai? Anh sẽ nói chữa cho người tên A tên B nào đó. Anh đã nói trước nếu là Việt cộng anh cũng chữa mà. Sao bắt tội anh được?” – “Còn thằng nhỏ?” – “Chà! Thằng Tùng sẽ vặn thằng nhỏ là sao mày dám nói xạo chị bị rắn cắn? Có phải anh mày không? Nếu không thì là ai? Chắc chắn hắn sẽ tra vậy. Thằng nhỏ bí quá cuối cùng phải nhận. Muốn tìm du kích thì phải vô rừng. Hù nó cho ra lẽ thôi, chứ đánh phạt con nít thì mang tiếng lắm! Tình thế buộc nó phải dối vậy.” Dân cười: “Kết cuộc anh sẽ xử lý ra sao?”- “Hốt gia đình ông Tư vô ấp chiến lược là xong, coi như phạt. Chấm hết”. Cả ba cùng cười. Ngày Xuân rỗi rảnh thư nhàn, thầy Hòa ngâm nga:
Hằng ước ở đời người không bệnh
Ngâm thơ uống rượu thầy thuốc nhàn(1).
Ba Thọ gật gù, uống xong ly rượu rồi hỏi thầy rắn: “Hỏi thật anh Hai nghe. Anh không muốn nói cũng không sao. Anh có ngọc rắn không?” Thầy Hòa cười: “Anh cũng tin chuyện đồn thổi đó sao? Dễ nguy cho tôi lắm đó. Nhất là mấy ông xe ôm hay thêu dệt thêm để câu khách móc túi bịnh nhân.” Ba Thọ gật: “Tôi cũng đoán vậy. Nhưng tận bên Mỹ cũng nghe đồn về thầy rắn, lên mạng nữa đó nghe...” - “Kệ họ. Tôi không muốn lợi dụng. Rắn có ngọc thật có tin. Nọc rắn thì có. Người ta nói trại nọc thành ngọc đó. Anh em có muốn nghe tôi kể chuyện ngọc rắn không?” Tư Dân và Ba Thọ đều gật đầu.
Thầy Hòa chậm rãi: “Thời Pháp, có người cai phu làm đường sắt xuyên hầm Hải Vân - đoạn đường đèo từ Huế tới Đà Nẵng làm rất khó khăn vì núi non hiểm trở. Hai hầm dài nhất là hầm Sen và hầm Chuối. Một hôm cai phu đi tuần dọc đường ray, khi sắp chui vào hầm Sen thì chợt thấy nhiều tia sáng lấp lánh chuyển động, ông rọi đèn pin thì thấy ánh sáng đó tỏa ra từ miệng một con rắn dài hơn ba thước đang bò ngang đường ray. Thấy người và ánh đèn, con rắn luồn chạy mất. Lúc đó có một tiều phu đi tới, cai phu liền kể lại chuyện rắn thì được người tiều phu bày: Bắt con gà, cột chân nó vào cái rổ thưa lật ngửa, đặt rổ lên trên một thau nước - làm thế nào để khi gà giãy giụa thì thau nước không bị lật đổ. Xong ngồi rình một chỗ đừng để con rắn thấy. Cai phu làm theo lời người tiều phu. Chờ lúc lâu, nghe tiếng gà kêu, con rắn lớn từ miệng hang bò ra, trườn đến mổ chết gà rồi siết chặt định nuốt. Lúc đó cai phu mới cầm gậy chạy ra, con rắn quýnh quáng luồn chạy, không kịp lấy lại ngọc vì đã lọt xuống khe rổ. Cai phu xin nghỉ việc trở về làng. Viên ngọc rắn màu thanh thiên, to bằng quả nhãn, có thể phát sáng trong bóng tối. Ai bị rắn độc cắn chỉ cần áp viên ngọc đó vào, ngọc sẽ hút hết chất độc. Nhờ đó cai phu cứu được nhiều người và hưởng giàu sang phú quý.”
Ba Thọ và Tư Dân thích thú ngồi nghe, thầy Hòa mỉm cười: “Dân Huế và Đà Nẵng thường kể chuyện này, thêm thắt còn hay hơn nữa, nhất là dân làng An Cư... Mình già rồi, có nghe cũng phải nghĩ. Toàn chuyện đồn thổi thôi! Người cai phu là cụ cố bảy đời của tôi. Con trăn lớn chứ không phải rắn. Có thể nó nuốt con mồi nào đó, trong dạ con mồi có viên kim cương.” Dân gật đầu: “Em hiểu rồi. Giống như chuyện có người giết được sấu lớn, trong bụng sấu có con vịt, trong ruột vịt có nhẫn hay hột xoàn mà ai đó đánh rơi vậy mà.” Thầy Hòa gật: “Phải đó. Cụ tôi đánh được con trăn, mổ ra nấu cao, lấy mỡ làm thuốc trị bỏng, tình cờ được viên kim cương - coi như lộc Trời. Cụ mừng quá về quê, từ đó chuyên tâm hành nghề y. Hai chú biết không? Sau đó lại có thêm chuyện đồn thổi gần như hoang đường rằng: Ai nuốt ngọc rắn sẽ miễn nhiễm với chất độc, không bao giờ bị bệnh, sẽ trường sinh bất tử... Cũng vì chuyện đó mà một đệ tử giỏi của cố tôi bị hại!...” Ba Thọ và Tư Dân giật mình: “Sao?...” Thầy Hòa gật đầu: “Người đệ tử đó khi gần 80 tuổi rồi mà còn khỏe mạnh như thanh niên, ông vừa là thầy thuốc vừa là thầy võ, bắt rắn độc như bỡn, chữa nọc rắn cực tài. Thế mà bị hại vì bọn ác nghĩ ông đã nuốt ngọc rắn. Chao ôi! Nhiều khi những lời đồn thổi vô tình giết người.” Tư Dân lẩm bẩm: “Nọc người hơn mười nọc rắn.”
Thầy Hòa nhìn ra sân, hàng mai trước nhà đang nở rộ, nắng xuân ấm áp dịu dàng. Thầy chậm rãi nói: “Tôi làm thuốc, có đọc sách, nghiên cứu đôi chút, thấy phương Tây họ chọn con rắn làm biểu tượng cho ngành y dược cũng đúng. Nọc rắn độc đến mấy mà biết dùng cũng thành thuốc quý, thành ngọc. Rồi tôi nghĩ đến con người mình, bớt tham sân si là bớt nọc. Ai cũng có ngọc trong người, phải năng mài dũa thôi.”
--------------
1. Thơ Hải Thượng Lãn Ông - Bản dịch của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm.