Chuyên đề

Nhà báo tài hoa và chất thép

Gs. Ts Tạ Ngọc Tấn
Tư liệu
07:00 | 21/08/2024
Baovannghe.vn- Thép Mới có tên khai sinh là Hà Văn Lộc, sinh ngày 15/02/1925. Quê gốc của ông ở xã Quảng An, huyện Từ Liêm, Hà Nội (từ tháng 10/1995 là phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội). Ông lấy bút danh là Thép Mới
aa
Nhà báo tài hoa và chất thép

THÉP MỚI (1925-1991)

Trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, Thép Mới là một nhà báo nổi tiếng, tâm huyết, tài hoa và phong cách đặc biệt, không lẫn vào đâu được. Theo như nhận xét của nhà báo Phan Quang(1): “Thép Mới là nhà báo tài hoa nhất trong số những nhà báo Việt Nam mà tôi được biết. Anh là người có thực tài, thực học. Một con người say sưa tìm tòi cái mới, sáng tạo phong cách mới. Một người làm báo với tâm hồn nghệ sỹ”.

THÉP MỚI - CẢ MỘT ĐỜI LÀM BÁO

Thép Mới có tên khai sinh là Hà Văn Lộc, sinh ngày 15/02/1925. Quê gốc của ông ở xã Quảng An, huyện Từ Liêm, Hà Nội (từ tháng 10/1995 là phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội). Ông lấy bút danh là Thép Mới với mong muốn được trở thành một nhà văn, nhà báo cách mạng, có chất thép trong tác phẩm của mình như ý hai câu thơ trong bài “Cảm tưởng đọc thiên gia thi” của Hồ Chí Minh: “Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Ông còn có các bút danh khác như: Phượng Kim, Hồng Châu, Ánh Hồng, tuy nhiên các bút danh này chỉ xuất hiện trong một số bài viết thời kỳ đầu. Thép Mới có một người em ruột kém ông 3 tuổi, nhà báo nổi tiếng Hồng Hà (tên khai sinh là Hà Văn Trường), người đã là Tổng Biên tập báo Nhân Dân (1982-1987), Chánh Văn phòng Trung ương Đảng (1987-1991), Bí thư Trung ương Đảng - Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng (1991-1996).

Do cha của Thép Mới, cụ Hà Văn Nguyên, làm công chức ở Ty Dây thép (tức Ty Bưu điện) Nam Định nên Thép Mới được sinh ra ở Nam Định. Lớn lên ở một trong những cái nôi cách mạng của cả nước, theo học ở trường học nơi những nhà cách mạng nổi tiếng Trường Chinh, Nguyễn Đức Cảnh... đã từng học tập và hoạt động, nên Thép Mới sớm ảnh hưởng tinh thần yêu nước, lý tưởng cách mạng. Năm 1943, sau khi tốt nghiệp trung học, ông lên Hà Nội theo học đại học Luật khoa và tham gia hoạt động trong Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Hội Văn hóa Cứu quốc và bắt đầu viết cho báo Tự trị, cơ quan của Tổng hội Sinh viên Việt Nam.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Tổng Bí thư Trường Chinh đã trực tiếp chọn Hà Văn Lộc về công tác tại báo Cờ giải phóng. Trong bài viết “Tôi làm báo” đăng trong Nội san Nhân dân số quý II/1985, ông nhớ lại: “trong cuộc họp phân công các hội viên Văn hóa cứu quốc và anh em cơ sở trí thức ở Hà Nội vào công tác tuyên truyền và văn hóa ngay sau cách mạng thành công, khi có ý kiến đề nghị đưa tôi về tạp chí Tiên phong của Hội Văn hóa Cứu quốc thì chính anh Trường Chinh nhìn vào tôi và bảo: “Đồng chí này đã có công tác rồi!”. Cùng về Cờ giải phóng với ông một đợt còn có Thôi Hữu, Nguyễn Huy Tưởng... Với Cờ giải phóng, anh thanh niên Hà Văn Lộc chính thức trở thành một người làm báo cách mạng chuyên nghiệp. Bút danh Thép Mới được ghi dưới bài báo “Trung thu độc lập đầu tiên” đăng trên báo Cờ giải phóng số ra ngày 20/9/1945 đã đi theo ông đến hết cuộc đời, trở thành một cái tên nổi tiếng trong làng báo Việt Nam, một sự duy danh định nghĩa cho sự nghiệp lừng lẫy của một nhà báo tài hoa, nhiệt thành yêu nước, cháy bỏng đam mê nghề nghiệp.

Ngày 11/11/1945, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra tuyên bố “tự giải tán” nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật dưới cái tên “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”, vì thế báo Cờ giải phóng cũng ngừng xuất bản sau khi ra số cuối cùng, số 33, ngày 18/11/1945. Để thay thế cho Cờ gii phóng, Trung ương Đảng chủ trương xuất bản báo Sự thật - “Cơ quan tuyên truyền cổ động của Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”. Ngày 03/12/1945, báo Sự thật được Chính phủ ký nghị định cho phép xuất bản, chỉ 2 ngày sau, báo đã ra số 1. Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo báo. Toàn bộ nhân sự của báo Cờ giải phóng, trong đó có Thép Mới, chuyển sang làm báo Sự thật.

Tháng 02/1951, Đại hội lần thứ II của Đảng quyết định Đảng ra hoạt động công khai, đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam, đồng thời cũng quyết định xuất bản báo Nhân Dân thay cho tờ Sự thật. Thép Mới tiếp tục làm việc tại báo Nhân Dân, trở thành một cây bút chủ lực của báo. Ngày 11/3/1951, báo Nhân Dân ra số đầu tiên tại Chiến khu Việt Bắc, trong đó đăng bài tường thuật “Đại hội của chúng ta” của tác giả Thép Mới.

Đầu những năm 1960, Thép Mới vượt đường mòn Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn vào chiến trường Nam bộ. Ông như một người chiến sĩ xông pha trận mạc, sẵn sàng đối mặt với gian khổ, hiểm nguy và hy sinh, có mặt ở những điểm nóng của cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Nam bộ, chứng kiến và viết về những sự kiện lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên tiền tuyến lớn của cả nước. Từ năm 1968 đến năm 1971, ông là Ủy viên Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, Tổng Biên tập báo Giải phóng. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Thép Mới tình nguyện ở lại Thành phố Hồ Chí Minh làm đại diện báo Nhân Dân để có điều kiện chứng kiến và viết về công cuộc hồi sinh, xây dựng cuộc sống mới của nhân dân miền Nam. Từ năm 1972 đến năm 1988, khi về hưu, Thép Mới làm Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân, song như nhà báo Hoàng Tùng(2) nhận xét, ông “không có hứng thú làm công tác lãnh đạo, chỉ muốn hòa mình vào cuộc sống, xông tới những nơi xuất hiện những sự kiện, những con người điển hình”. Sau khi về hưu, Thép Mới sống ở Thành phố Hồ Chí Minh và tiếp tục cộng tác chặt chẽ, viết bài cho báo Nhân Dân như một bình luận viên cao cấp.

Ngày 28/8/1991, Thép Mới qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 66 tuổi. Ông là một nhà báo chuyên nghiệp, dành cả cuộc đời cho viết báo, là nhân chứng có thẩm quyền trong suốt một thời kỳ lịch sử hào hùng của cách mạng và của dân tộc. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì và nhiều phần thưởng cao quý khác.

THÉP MỚI THỜI “TRUNG THU ĐỘC LẬP ĐẦU TIÊN”

Chính hoạt động trong đoàn thể sinh viên đã đưa anh thanh niên Hà Văn Lộc đến với báo chí - một công việc - một sự nghiệp đã theo ông đến cuối cuộc đời. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương 09/3/1945, Tổng hội Sinh viên Việt Nam tổ chức xuất bản báo công khai Tự trị nhằm tuyên truyền vận động lực lượng thanh niên rộng rãi theo tinh thần liên hiệp, yêu nước, không đi theo con đường thân Nhật trong điều kiện tình hình xã hội rất phức tạp lúc bấy giờ. Tờ Tự trị do Nguyễn Xuân Sanh làm chủ bút. Tham gia viết cho báo Tự trị là các thanh niên sinh viên, có tinh thần yêu nước, đang hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Việt Nam và Hội Văn hóa Cứu quốc. Hà Văn Lộc là một trong những cây bút tích cực của báo. Và cũng chính từ những bài viết đầu tiên của ông trên tờ Tự trị, người ta đã có thể cảm nhận những dấu hiệu về một khuynh hướng chính trị, một chất giọng, văn phong riêng có của nhà báo Thép Mới trong tương lai.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Thép Mới thực sự bắt đầu cuộc đời làm báo chuyên nghiệp tại báo Cờ giải phóng, rồi tiếp tục là cây bút hàng đầu của báo Sự thật, báo Nhân Dân. Lý tưởng sống trong sáng, khát vọng cống hiến của tuổi trẻ bắt gặp không khí sôi sục và sức hấp dẫn của cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc đã thôi thúc Thép Mới hăm hở bước vào con đường rộng lớn của cuộc đời mình với tư cách một người chiến sĩ chiến đấu bằng ngòi bút. Bài báo “Trung thu độc lập đầu tiên” của Thép Mới đăng trên báo Cờ giải phóng ngày 20/9/1945, nghĩa là chỉ 18 ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình, dường như tuôn trào dòng cảm xúc dưới ngòi bút. “Ôi, cuộc sống ngày mai, cuộc sống của các em, cuộc sống say mê nồng cháy. Đời sẽ là một bản đàn rực rỡ có muôn vạn âm thanh. Các em sẽ viết bài thơ bằng sắt thép và bằng lửa đỏ lòng trai: bài thơ của xây dựng ấy”. Những điều Thép Mới nói với các em nhỏ trong ngày trung thu độc lập đầu tiên ấy cũng là nỗi lòng hân hoan, niềm vui phơi phới, hạnh phúc vô bờ của tác giả, một con người đã trải qua “chuỗi ngày xanh của một bầy trẻ con nô lệ của một nước nô lệ”, trước thắng lợi của cách mạng, trước tương lai rạng rỡ của dân tộc. Đó cũng chính là bài báo, áng văn mở đầu cho một bút pháp giao hòa giữa sự kiện với chất lãng mạn, giữa chất liệu cuộc sống chân thực với những liên tưởng trữ tình ngoại đề, suy tư mỹ cảm phong phú, một phong cách viết báo Thép Mới.

Nhưng Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, Nhà nước dân chủ nhân dân vừa ra đời đã đứng trước những thử thách khắc nghiệt. Nạn đói làm cho người dân nhiều nơi ở đồng bằng, trung du Bắc bộ bị kiệt quệ. Trong Nam, thực dân Pháp núp bóng quân đội Anh quay lại âm mưu chiếm nước ta một lần nữa. Ngoài Bắc, 20 vạn quân Tưởng kéo vào với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật Bản, kéo theo một lũ tay sai Việt gian, nhằm thực hiện âm mưu “diệt Cộng cầm Hồ”, thủ tiêu những thành quả Cách mạng Tháng Tám mà Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam vừa mới giành được. Trong điều kiện nước sôi, lửa bỏng đó, Thép Mới viết một loạt bài báo tố cáo những âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực chống phá cách mạng. Đó là các bài “Căm hờn” (báo Cờ giải phóng, ngày 21/10/1945) lên án hành động khủng bố của đội quân thực dân Pháp ở Nam bộ; “Kẻ nào đã bắt cóc anh Trần Đình Long? (báo Sự thật, các ngày 20+23/01/1946) tố cáo hành động khủng bố, bắt cóc của Quốc dân Đảng; “Sự thật ở Việt Trì, Phú Thọ” (báo Sự thật, ngày 29/7/1946) tố cáo bọn lưu manh núp bóng Quốc dân Đảng in tiền giả để cướp bóc của cải thật của người dân; “Thiên đường ở đâu? Thiên đường ở đâu?” (báo Sự thật, tháng 10/1946) phê phán báo Chính nghĩa - cơ quan của Quốc dân Đảng đã đăng bài xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu Liên xô; “Sự thật ở Lạng Sơn” (báo Sự thật, tháng 11/1946) tố cáo những hành động phá hoại, khủng bố của quân Pháp ở Lạng Sơn; v.v..

Nhà báo tài hoa và chất thép
Một số tác phẩm của nhà báo Thép Mới

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thép Mới là phóng viên, nhà bình luận, cây bút chủ lực của báo Sự thật và báo Nhân Dân. Ông viết bình luận về các vấn đề trong nước, phê phán những âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc chống phá cách mạng. Ông đi đến nhiều địa phương, nhiều cơ quan, đơn vị quân đội, chứng kiến nhiều sự kiện chính trị quan trọng, tìm hiểu các chiến dịch quân sự, viết các bài bình luận, các thiên phóng sự. Một số thiên phóng sự của Thép Mới để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc, trở thành dữ liệu lịch sử quý giá của đất nước. Đặc biệt phải kể đến các thiên phóng sự: “Kháng chiến sau lũy tre, trên đồng lúa” (báo Sự thật, tháng 7/1947); “Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947 (báo Sự thật, tháng 10/1947 - tháng 5/1948); “Trách nhiệm” (Nhà xuất bản Văn nghệ, tháng 5/1951); “Viết tại chỗ về Điện Biên Phủ” (báo Nhân Dân, từ 09/4 đến 12/6/1954); “Từ Cửa Ông đến Bãi Cháy” (báo Nhân Dân, ngày 27 và 28/4/1955)...

Nếu “Kháng chiến sau lũy tre, trên đồng lúa” kể về cuộc sống của nhân dân ta trong kháng chiến, vừa khôn ngoan, sáng tạo trong lao động, sản xuất, vừa thông minh, gan dạ ứng phó với sự đàn áp của kẻ thù, thì “Trách nhiệm” là thiên phóng sự về hành trình đi nước ngoài của tác giả và những cảm nhận, suy nghĩ về tình cảm, sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. “Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947 lại là câu chuyện kể về toàn bộ những chiến công của quân đội và nhân dân ta chống lại cuộc tấn công của quân đội Pháp lên Chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt Trung ương Đảng, Chính phủ và đầu não của cuộc kháng chiến, từ chiến thắng trên đèo Bông Lau, các trận đánh Phủ Thông, ngã ba Sông Gâm, bến Bình Ca, đến chiến công của bộ đội Vũ Lăng, các chiến thắng Đèo Khế, Đèo Giàng... Có lẽ, đây là thiên phóng sự đầu tiên thể hiện rõ nét phong cách đặc trưng của Thép Mới. Đó là chất sự kiện, sự tiếp nối của những chi tiết, hành vi, sự việc, con người rất cụ thể, gắn bó chặt chẽ với những liên tưởng, suy luận, những cảm xúc chủ quan,

Phóng sự “Viết tại chỗ về Điện Biên Phủ” cùng một bút pháp như “Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947” nhưng có quy mô lớn hơn, được đăng tải từng phần trên báo Nhân Dân từ 09/4 đến 12/6/1954. Tác giả đã chứng kiến và kể về những ngày ác liệt nhất của Chiến dịch Điện Biên Phủ cho đến khi tướng Đờcát cùng bộ chỉ huy địch đầu hàng và niềm vui “rung chuyển cả bầu trời” của bộ đội và nhân dân Tây Bắc về chiến thắng lịch sử của dân tộc. Phóng sự “Viết tại chỗ về Điện Biên Ph như một bộ phim tài liệu - chính luận, một bức tranh toàn cảnh sinh động về chiến thắng Điện Biên Phủ với sự góp mặt của những nhân vật chính làm nên chiến thắng là những anh bộ đội, những người dân công hỏa tuyến và nhân dân Tây Bắc. Với thiên phóng sự “Viết tại chỗ về Điện Biên Phủ”, Thép Mới hầu như tô đậm hơn, khẳng định rõ hơn phong cách riêng có của mình, sự giao hòa giữa chất sự kiện báo chí với chất lãng mạn trong những suy tư, liên tưởng, trữ tình ngoại đề của tùy bút. Nói như nhà báo Hoàng Tùng, phóng sự của Thép Mới “có phong cách đặc thù, phóng sự - tùy bút, văn học và tân văn thống nhất với nhau”. Tháng 5/1964, trong dịp kỷ niệm 10 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Thép Mới công bố tác phẩm “Điện Biên Phủ một danh từ Việt Nam”. Có thể nói “Điện Biên Phủ một danh từ Việt Nam” là thiên bút ký chính luận, sự tiếp nối của “Viết tại chỗ về Điện Biên Phủ”, với những tư liệu còn tươi mới, với những bình luận, phân tích sâu sắc nhằm nhấn mạnh hơn, làm rõ hơn, nhất là tô đẹp thêm võ công oanh liệt, “chấn động địa cầu” của quân và dân ta.

THÉP MỚI THỜI “CHIẾN HÀO CHAN CHỨA TÌNH THƯƠNG”

Từ sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết đến khi kết thúc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là 20 năm có lẻ. Suốt hơn 20 năm ấy, Thép Mới liên tục có mặt trên tuyến đầu của công cuộc xây dựng đất nước và chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Trong suốt hơn 20 năm ấy, ngòi bút của Thép Mới không ngừng nghỉ, không bao giờ với cạn cảm xúc và nhiệt huyết sáng tạo. Có thể nhận thấy hai mảng đề tài lớn nhất trong các tác phẩm của ông trong thời kỳ này là: Quan hệ hữu nghị với đồng chí, bạn bè trên thế giới và cuộc chiến tranh cách mạng chống kẻ thù xâm lược.

Các tác phẩm của Thép Mới viết về mảng đề tài thứ nhất chủ yếu tập trung trong thời gian trước khi ông vào Nam, khoảng đầu năm 1965. Mỗi bài viết của ông gắn liền với một chuyến đi công tác nước ngoài, nhất là các chuyến tháp tùng đoàn đại biểu của Đảng, Nhà nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đi thăm Liên xô, Trung Quốc và Mông Cổ từ 22/6 đến 22/7/1956 và đi thăm 9 nước xã hội chủ nghĩa (Triều Tiên, Tiệp Khắc, Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari, Nam Tư, Anbani, Bungari, Rumani) kéo dài 55 ngày, từ 6/7 đến 30/8/1957. Đó là: “Những ngày tươi nắng ở Matxcơva” (Nhân Dân, tháng 7/1955); “Bốn vạn cây số hành trình hữu nghị” (Nhân Dân, số 02/9/1957); “Nắng về trên cánh đồng Chum” (Nhân Dân, số 17/9/1961); “Hiên ngang Cuba” (Nhân Dân, số 15/3/1962), “Hai lần đến bãi biển Hirôn”, v.v... Trước đó, năm 1950, giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang ở giai đoạn ác liệt, Thép Mới với tư cách nhà báo đã có một chuyến đi thăm Liên xô, một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu rồi về nước qua Trung Quốc. Chuyến đi ấy để lại hai tác phẩm: “Thư về nước” (Sự thật, 16/12/1950) và Trách nhiệm (Nhà xuất bản Văn Nghệ, tháng 5/1951).

Các tác phẩm viết trong chuyến đi nước ngoài đầu tiên, hay những chuyến đi về sau của Thép Mới ngập tràn trong niềm vui và sự xúc động. Đi ra từ trong khói lửa chiến tranh hay những khó khăn, gian khổ của những ngày đầu dựng xây đất nước, ông được tận mắt chứng kiến những thành tựu xây dựng hòa bình, cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Những điều ấy lại thôi thúc ông nghĩ và cảm về nhân dân, Tổ quốc mình. Trong mỗi câu chuyện, mỗi cảnh sắc bắt gặp trên đường, mỗi cuộc gặp gỡ những người bạn, người đồng chí, ông đều như gửi gắm niềm tự hào, tin tưởng về con người, đất nước mình, về cuộc cách mạng chân chính của dân tộc mình và của chính mình. Trong các tác phẩm thuộc mảng đề tài thứ nhất, “Hiên ngang Cuba” như viên đá quý lấp lánh sáng, một tác phẩm đặc sắc, nổi bật, đại diện đầy đủ nhất và thể hiện rõ nét nhất phong cách phóng sự - tùy bút của ông. Thép Mới viết về đất nước, con người Cuba, về lãnh tụ Phiđen Caxtơrô, về cây cọ - hình ảnh tượng trưng cho khí phách của người dân và cuộc cách mạng chân chính của Cuba, với thái độ trân trọng, tình cảm tha thiết, chất giọng tráng ca và cả niềm tự hào như chính là những điều cao đẹp của nhân dân mình, những thành công của cuộc cách mạng trên đất nước mình. “Một dân tộc mà cả lịch sử là anh dũng trường kỳ không thể không cảm, không yêu cái phong độ rất đỗi hiên ngang của bạn. Cái hiên ngang của những con người đã quyết: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và với lòng tin hết sức biện chứng, Cuba giơ thẳng nắm tay: “Benxêrêmôxi” nghĩa là “Chúng ta sẽ thắng!”.

Các tác phẩm của Thép Mới viết về mảng đề tài thứ hai hầu như trải dài suốt khoảng thời gian từ sau Chiến thắng Điện Biên Phủ cho đến Đại thắng mùa xuân 1975, nhưng tập trung nhất chính là trong 10 năm 1965-1975. Đó là một số lượng lớn đến hàng trăm phóng sự, bút ký, tùy bút, như: “Đà Nẵng, thanh gươm kề cổ giặc Mỹ” (Đà Nẵng, tháng 6/1965); “Mìn chông Điện Bàn” (Nhân Dân, 26 và 27/5/1965); “Lớp lớp người con của biển căm hờn” (Nhân Dân, 28 và 29/7/1965); “Trường Sơn hùng tráng” (Nhân Dân, từ 19 đến 22/8/1965); “Tây Nguyên, thành đồng của thành đồng” (Nhân Dân, từ 08 đến 10/6/1966); “Anh giải phóng quân” (Nhân Dân, từ 12 đến 14/7/1966); “Một trận đánh “chí cốt” (Nhân Dân, từ 17 đến 21/7/1966); “Tây Nguyên chỉ một lời nguyền: Đánh Mỹ tới cùng” (Nhân Dân, từ 30/8 đến 01/9/1966); “Trái mìn của người du kích” (Nhân Dân, từ 21 đến 29/5/1967); “Từ trận Điện Biên của đất Củ Chi” (Nhân Dân, từ 12 đến 17/9/1967); “Ở một góc mặt trận Sài Gòn (Đợt II Mậu Thân)” (Nhân Dân, các ngày 20/6, 20/7, 30/7 và 20/8/1968); “Vươn lên xốc tới” (Nhân Dân, ngày 30/7/1968); “Mùa thu ơi, mùa xuân gọi chiến trường chan chứa tình yêu” (Nhân Dân, các ngày 02/9 và 05/9/1968); “Nguyễn Thái Bình, nổi dậy của trái tim anh” (Nhân Dân, từ 25/7 đến 02/8/1972); “Hà Nội, thủ đô của phẩm giá con người (Nhân Dân, từ 17 đến 26/12/1972); “Sài Gòn, hừng đông của ngày mới (Nhân Dân, ngày 05/5/1975); “Đường Hồ Chí Minh sáng đỉnh Trường Sơn” (Nhân Dân, từ 19/5 đến 26/5/1975); v.v.. và v.v...

Trong các tác phẩm của Thép Mới, nhân vật người chiến sĩ giải phóng chiếm vị trí trên hết và hình ảnh đẹp nhất. Đó là những người chiến sĩ từ nhân dân mà ra, trưởng thành từ trong thử thách của chiến tranh cách mạng, mang trong mình dòng máu yêu nước của thế hệ cha anh, dũng cảm, can trường trong chiến trận, hy sinh thân mình vì dân tộc, vì nhân dân, như anh Tám Sơ trong “Mùa thu ơi, mùa xuân gọi chiến trường chan chứa tình yêu”. Đó là những người chỉ huy, chiến sĩ trong bút ký “Một trận đánh “chí cốt”, những người “lòng gang dạ thép, rất tình cảm và rất nhạy cảm”, coi đánh giặc như công việc bình thường, “dường như chẳng có cảm tưởng gì là mình vừa làm những việc rất anh hùng, vừa lập một chiến công to và có nhiều ý nghĩa”, trong gian khó, hy sinh nơi chiến trường miền Nam vẫn da diết nhớ về những người anh em đồng chí đang vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ Thủ đô, bảo vệ nhân dân và lãnh tụ, bảo vệ những thành phố, nhà máy, công trình trên miền Bắc thân yêu.

Đặc biệt, hình ảnh của những người chiến sĩ giải phóng được Thép Mới khắc họa rất hiện thực nhưng cũng đầy chất lãng mạn trong bút ký “Anh giải phóng quân”. Tác phẩm được công bố trên báo Nhân Dân tháng 7/1966. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới cam go, khốc liệt hơn, khi mà quân Mỹ ồ ạt đổ bộ vào miền Nam cùng với vũ khí, khí tài hiện đại, phối hợp với Quân đội Việt Nam Cộng hòa thực hiện chiến lược “tìm và diệt” hòng giành thắng lợi trên chiến trường, tiêu diệt các lực lượng vũ trang cách mạng. Ở miền Bắc, sau khi dựng lên vụ Sự kiện Vịnh Bắc bộ tháng 8/1964, Mỹ đã sử dụng lực lượng không quân và hải quân hiện đại nhất thế giới tiến hành cuộc chiến tranh bắn phá hòng đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá. Trong điều kiện cả nước có chiến tranh, miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa phải duy trì sản xuất, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn; đồng bào, chiến sĩ miền Nam chiến đấu không chỉ tiêu diệt kẻ thù, giữ đất, giành dân, mà còn để tiêu hao tiềm lực quân sự của địch, chia lửa với hậu phương lớn miền Bắc.

Trong hoàn cảnh ấy, hơn ai hết, anh giải phóng quân là người chiến đấu trực diện trên chiến trường với kẻ thù tự coi là “giàu mạnh nhất thế giới”, sẵn sàng chấp nhận những ác liệt của trận chiến, kể cả hy sinh để đánh đuổi quân thù, bảo vệ nhân dân, bảo vệ cách mạng. Và tác giả có được may mắn là người “vinh dự gặp các đồng chí giải phóng quân đang lớn bổng lên, qua một mùa khô, với những chiến thắng lẫy lừng Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Bông Trang - Nhà Đỏ, cho quân viễn chinh xâm lược Mỹ nếm đòn phủ đầu sấm sét”. Như là trong hoàn cảnh điển hình, anh giải phóng quân trong tác phẩm của Thép Mới cũng đúng là nhân vật điển hình thực tế - điển hình về tình yêu đất nước, tình yêu nhân dân, yêu đồng chí đồng đội; điển hình về lòng dũng cảm, chí căm thù giặc và tinh thần chiến đấu ngoan cường; điển hình về sự gắn bó mật thiết với nhân dân, hết lòng bảo vệ nhân dân và được nhân dân yêu thương, đùm bọc, chở che. Chất điển hình ấy của anh giải phóng quân chính là xuất phát từ trong bão tố của cuộc đời với thân phận của người dân mất nước, từ trong bão táp đồng khởi được nhân lên với những chiến thắng vẻ vang được yêu thương, đùm bọc của nhân dân trong “tình cá nước chiến đấu”.

Gắn liền với anh giải phóng quân trong các tác phẩm báo chí của Thép Mới là hình ảnh những người dân bình thường từ người già, trẻ nhỏ, thanh niên, phụ nữ, học sinh, sinh viên, nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị, đồng bào các dân tộc ít người, đến những người du kích, thanh niên xung phong, giao liên, bác sĩ,... Một ông già Bang trong bút ký “Lớp lớp người con của biển căm hờn” đã có người con đầu là chiến sĩ quân giải phóng Lê Đại hy sinh trong trận Túy Loan, người con thứ hai là Lê Độ bị giặc bắt và sát hại khi tổ chức đánh mìn diệt quân Mỹ trong khách sạn Bạch Đằng, còn người con thứ ba là Khoát mà bà con vẫn gọi là Độ em, ông vẫn nhất quyết gửi gắm cho cách mạng. Ông bảo: “Thằng Độ em, tôi mang lên xin gửi cho cách mạng, trông nhờ cách mạng dìu dắt thành người để nó làm nốt phận sự của hai anh nó. Nó đền được nợ nước, trả được thù nhà là tôi chết cũng yên lòng”. Những bà má chiến sĩ trong tùy bút “Anh giải phóng quân” ngăn không cho bộ đội ra chữa cháy những ngôi nhà bị bom Mỹ, lấy thân mình che cho chiến sĩ bị thương, bởi nhà có cháy các má làm lại cái khác, nhưng “các anh cần sống” để đánh giặc. Những cô du kích Đội nữ võ trang ở vành đai Củ Chi, mỗi người mỗi cảnh, có cô được má tiễn đi còn dặn “đi mà bỏ về là tao chặt giò”, có cô trốn cha mẹ, gia đình để gia nhập đội, nhưng ai cũng dũng cảm, đi đánh Mỹ như đi hội, trong gian khổ vẫn chan chứa tình thương đồng đội, đồng bào (bút ký: “Từ trận Điện Biên Phủ của đất Củ Chi”). Những người thanh niên xung phong, chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Quyết thắng, đường Hồ Chí Minh dũng cảm, kiên cường, thông minh, sáng tạo, vượt qua gian khổ, hy sinh, giữ vững hoạt động của mạch máu giao thông tiếp tế cho tiền tuyến lớn (bút ký “Đường Hồ Chí Minh sáng đỉnh Trường Sơn”).

Đó là những người dân hiền lành, nhân hậu, sẵn lòng nhường cơm, sẻ áo cho đồng bào, mang nặng nợ nước, thù nhà, một lòng trung trinh tin tưởng vào cách mạng, vào Bác Hồ, chịu đựng gian khổ hy sinh, không tiếc của cải và cả tính mệnh vì thắng lợi của cách mạng. Họ là lớp lớp người tạo nên biển lớn nhân dân nâng sóng cho con thuyền cách mạng đi tới, là thành trì tin cậy nhất, bao bọc bảo vệ đội quân cách mạng, là điểm tựa vững chắc không gì có thể lay chuyển cho những chiến công của đội quân giải phóng anh hùng.

Có một điều rất riêng ở Thép Mới là ông viết về những cuộc chiến đấu trong lửa đạn khốc liệt, về sự hy sinh của những người chiến sĩ giải phóng, về sự gian khổ, mất mát của đồng bào trong chiến tranh mà không hề bi lụy. Hy sinh, mất mát và buồn đau đấy nhưng vẫn “chan chứa tình yêu”, chan chứa niềm tin vào chính nghĩa, vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Và ở bất cứ đâu, ngay trong chiến hào đầy khói lửa của trận đánh hay trong những phút sinh hoạt đời thường, đều ánh lên niềm lạc quan, yêu đời, chất hào sảng của những con người chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, thống nhất của đất nước, hạnh phúc của nhân dân. Đó hoàn toàn không phải một sự thi vị hóa hay lãng mạn phi hiện thực theo cách nghĩ của những người đã định vị trong đầu cái logic “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Đó là một logic hiện thực bắt nguồn từ cuộc sống, một logic rất riêng của Việt Nam mà Thép Mới đã nhận ra từ thực tế cuộc chiến đấu của đồng bào và chiến sĩ trên tiền tuyến lớn miền Nam, đã đưa vào và tô đậm lên trong các tác phẩm của mình.

THÉP MỚI THỜI ĐẤT NƯỚC “VẤT VẢ ĐI LÊN”

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thống nhất một nhà, nhưng cuộc chiến đấu của Thép Mới chưa dừng lại. Với vũ khí là cây bút, ông lại bước tiếp vào cuộc chiến đấu mới - cuộc chiến đấu để hàn gắn những vết thương của 30 năm chiến tranh, dựng xây lại đất nước to đẹp, đàng hoàng hơn như lời căn dặn của Bác Hồ. Một lần nữa, miền Nam lại là tuyến đầu của công cuộc cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Với tình yêu đối với miền Nam, trách nhiệm với cây bút và nghề nghiệp của mình, Thép Mới tình nguyện ở lại Thành phố Hồ Chí Minh để được “hòa mình vào cuộc sống, xông tới những nơi xuất hiện những sự kiện, những con người điển hình” - như nhận xét của nhà báo Hoàng Tùng.

Nếu trong kháng chiến chống Mỹ, trận tuyến đánh quân thù vô cùng gian khổ và ác liệt, thì trong công cuộc hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng lại những thành phố, làng mạc của đất nước nói chung và miền Nam nói riêng cũng không kém phần khó khăn và phức tạp. Sự khó khăn, phức tạp trong hòa bình xây dựng không chỉ xuất phát từ những hậu quả, di hại từ chiến tranh như sự tàn phá bởi vũ khí chiến tranh, sự ô nhiễm môi trường sống bởi chất độc hóa học và bom mìn, những mặc cảm hận thù giữa người với người và những chia rẽ xã hội trong nội bộ dân tộc, những rắc rối từ quan hệ quốc tế, v.v.. Nó còn bắt nguồn từ những cách nghĩ, cách làm chưa hợp lý, từ những lợi ích cá nhân, những tư tưởng vụ lợi được che đậy dưới những lớp vỏ công tâm và tích cực. Thép Mới tắm mình trong thực tiễn ấy, thấu hiểu sâu sắc quá trình “vất vả đi lên” của đất nước, lo lắng trước những khó khăn chung của đất nước, vui với từng chuyển động tích cực, từng nhân tố, dấu hiệu tiến bộ ở những nhà máy, xí nghiệp và địa phương.

Vào ngày Quốc khánh đầu tiên sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Thép Mới thổ lộ niềm vui hân hoan, tràn đầy cảm xúc trước chiến thắng: “Trọn vẹn, dứt khoát, mở ra mọi chiều triển vọng xán lạn, bao la, là thắng lợi mà hôm nay mỗi người chúng ta đang thở với không khí hằng ngày, căng đầy lồng ngực... Dân tộc này sống mãi, sống lớn, sống đẹp, sống độc lập, tự do và hạnh phúc thật sự từ đây” (“Về với tương lai”, báo Nhân Dân, ngày 02/09/1975). Đúng là một niềm vui, niềm tự hào quá lớn lao, song ông cũng hiểu rằng, để xây dựng cuộc đời mới, xây dựng đất nước to đẹp, đàng hoàng là một sự nghiệp không đơn giản. Bởi ngay khi khói súng vừa tan, không khí chiến thắng còn rộn ràng, náo nức, ông đã dự báo rằng, “Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng. Nhưng chiến dịch mang tấm lòng của Bác Hồ đến với mỗi nhà phải chăng chỉ mới bắt đầu?” (“Gặp một chiến sĩ cắm cờ trên dinh Độc Lập”, báo Nhân Dân, ngày 21/5/1975). Đó chính là một chiến dịch khổng lồ, lao động sáng tạo, lâu dài và không kém phần gian khổ nhằm thực hiện ước nguyện của Người “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, “phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Cùng với cảm hứng ấy, Thép Mới còn có một loạt bút ký. “Bạc giả bắn vào con người và đời sống” (Nhân Dân, ngày 01 và 02/3/1976); “Dặm biển, dặm trời ta đi tới - đảo quê hương" (Nhân Dân, các ngày 06, 08 và 09/7/1976); “Có một sự nghiệp xây dựng Tây Nguyên đẹp tươi, hùng vĩ (Nhân Dân, từ 25 đến 28/4/1978); Chuyển động ở thành phố lớn" (Nhân Dân, ngày 01/01/1981); “Mùa xuân lại nhìn từ cơ sở (Nhân Dân, ngày 25/01/1982), v.v.. Vui lắm với chiến công oanh liệt của dân tộc, tin lắm với tương lai tươi sáng của đất nước, nhưng trong niềm vui, niềm tin ấy vẫn thấu hiểu sâu sắc những thách thức đang còn ở phía trước. Hãy nghe Thép Mới trải lòng với những người đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc: “Ràng ơi, Tài ơi, đã dậy lên rồi bình minh của cuộc đời sẽ khác, ngày mai không xa nắm chắc. Chủ nghĩa xã hội của nước ta, sức mạnh dấy lên từ người, sức mạnh dấy lên từ đất... Vui hôm nay là vui đẫm mồ hôi, vui trào chất xám, trong chiến đấu còn nhiều vất vả để đi lên” (Ánh sáng với mùa xuân, báo Nhân Dân, Tết Đinh Tỵ, ngày 18/02/1977).

Chứng kiến những khó khăn, vất vả trong phát triển kinh tế, những khoảng tối trong đời sống xã hội, nhưng Thép Mới vẫn vững tin vào những điều tốt đẹp của chế độ, vào cái mới đang và sẽ nhất định xuất hiện từ thực tế lao động sáng tạo của nhân dân. Viết về Nhà máy dệt Thành Công, một cơ sở công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh (Mùa xuân lại nhìn từ cơ sở, báo Nhân Dân, ngày 25/01/1982), ông hiểu đến chân tơ, kẽ tóc những khó khăn của nhà máy trong tình hình chung của cả nước: “Một năm mà vật tư nguyên liệu của Nhà nước cấp nói chung chỉ còn một nửa. Điện thiếu như chưa từng bao giờ xảy ra. Thầm lặng và gay cấn vô cùng là cơn điên đầu của những cơ sở sản xuất bước đầu bung ra kinh doanh, với những ràng buộc về chính sách ngoại tệ kéo dài mấy tháng mới gỡ ra được, tiếp theo liền là quý cuối năm, là cuộc biến động đột ngột về giá cả. Cộng vào tất cả những cái đó là sự “hỏi thăm sức khỏe” liên tục của không biết cơ man nào là đoàn kiểm tra của các cơ quan tổng hợp, mang cái nhìn và các luật lệ cũ chưa thay đổi, đến mời vào khuôn phép và vô tình bổ lấy bổ để vào cái mới sơ sinh”. Và chính trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn đó, tác giả đánh giá rất cao “Cái mới trồi lên trong gian nan cực kỳ”. Chính sự mạnh dạn tìm tòi các giải pháp, bước đi dũng cảm, sáng tạo để phát triển sản xuất trong khó khăn, vất vả, thiếu thốn trăm bề đã làm nên những điển hình trong phát triển kinh tế ở Thành phố Hồ Chí Minh như Nhà máy dệt Thành Công, Nhà máy Vĩnh Hội (Nhà máy Baxtô cũ), Nhà máy thuốc lá Sài Gòn (Nhà máy Mích cũ), mở ra chuyển động cho cả thành phố lớn.

Cũng trong thời kỳ này, Thép Mới còn viết một số bài viết về chân dung những nhân vật lịch sử, cán bộ lãnh đạo, những đồng chí, đồng nghiệp mà ông tin yêu, quý trọng. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thép Mới viết bài “Bác Hồ trên núi Hồng” (Nhân Dân, ngày 19/5/1990) kể lại những kỷ niệm ấm áp về người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc trong những lần được gặp Bác. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 75 Ngày sinh của Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông có bài “Sáng tạo, một tấm gương lớn” (Nhân Dân, ngày 07/11/1982), ca ngợi tấm gương của đồng chí Lê Duẩn, một con người vào sinh ra tử, trải qua những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, luôn đấu tranh và làm việc với tinh thần sáng tạo. Đó cũng là các bài viết về: danh nhân Nguyễn Trãi (“Vị anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa lỗi lạc”, Nhân Dân, ngày 26/5/1979); vị anh hùng áo vải Quang Trung (“Quang Trung với thời cơ 89”, Nhân Dân, ngày 12/02/1989); danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm (“Năm trăm năm Nguyễn Bỉnh Khiêm”, báo Hải Phòng, ngày Tết Đinh Mùi 1991); Chủ tịch Tôn Đức Thắng (“Cái trong của một đời người”, Nhân Dân, ngày 17/02/1988), đồng chí Trường Chinh (“Ngày 5 tháng 10 năm 1947”, Nhân Dân, ngày 05/10/1988); nữ tướng Nguyễn Thị Thập (“Chị Mười Thập của chúng ta”, Nhân Dân, ngày 27/5/1985); đồng chí Phạm Hùng (“Một người cùng thời với Lý Tự Trọng”, Nhân Dân, ngày 14/3/1988); về nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (“Cái mới của Lưu Hữu Phước”, Nhân Dân, ngày 12/6/1989); nhà báo đồng nghiệp Nguyễn Hữu Chỉnh (“Một cây bút, một con người”, Nhân Dân, ngày 21/5/1991); v.v.. Mỗi gương mặt, mỗi cuộc đời của mỗi nhân vật đều được Thép Mới khắc họa với những đường nét sắc sảo, cái nhìn trân trọng và tấm lòng thật nhân hậu.

*

“Sống hết mình vì cách mạng và nghệ thuật là tác phẩm cuối cùng in trong cuốn sách “Sáng đỉnh Trường Sơn”, chọn lọc những bài viết của Thép Mới trong khoảng thời gian từ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến cuối đời. Đây là bài viết của Thép Mới về người bạn chiến đấu thân thiết của mình, người mà “tình chung chiến hào và giờ tháng Tám”, nghệ sĩ nhân dân Phạm Văn Khoa, khi ông vào thăm bạn đang ốm nặng trong bệnh viện. Nhưng không ngờ, Thép Mới lại ra đi trước Phạm Văn Khoa gần 2 tháng. Thép Mới nhận xét bạn là người “Nghệ sĩ từ trong con người, từ cả cuộc đời”, một con người “sống hết mình vì cách mạng và nghệ thuật”, những điều hoàn toàn có thể vận vào chính cuộc đời ông, một nhà báo mà chất nghệ sĩ tài hoa từ trong con người, giao hòa với chất thép của một chiến sĩ cách mạng, suốt đời cống hiến cho dân tộc, cho đất nước, để lại một sự nghiệp sáng chói trong lịch sử báo chí Việt Nam.

Tạ Ngọc Tấn | Báo Văn nghệ

Chú thích:

(1). Phan Quang: “Thép Mới - cây bút tài hoa”, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 4 (tháng 7+8-2000).

(2). Hoàng Tùng: “Một cây bút thép”, trong Thép Mới: Cây tre Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 9.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thép Mới: Cây tre Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

2. Thép Mới: Sáng đỉnh Trường Sơn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

3. Nhiều tác giả: Nhớ một thời làm báo Nhân Dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

god

4. Hồng Vinh (chỉ đạo biên soạn): Sơ thảo lịch sử 50 năm báo Nhân Dân 1951-2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

5. Báo Nhân Dân: Những người làm báo Nhân Dân (1951– 2016), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

6. Giáo sư Hà Minh Đức (Chủ biên): Thời gian và nhân chứng (hồi ký của các nhà báo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

---------------

Bài viết cùng chuyên mục:

Can đảm viết, bản lĩnh trao (giải) Thái Bá Dũng và những bài báo "đưa các em qua khúc khó" Điều ít biết về tác giả bài thơ “Xin đừng gọi anh là liệt sỹ vô danh” Khánh thành, bàn giao Di tích Quốc gia trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng Đọc truyện: Cây gạo ở chợ chiều - Truyện ngắn dự thi của Cầm Thị Đào
Công điện của Thủ tướng Phạm Minh Chính: Ứng phó bão số 4 và hoàn lưu sau bão

Công điện của Thủ tướng Phạm Minh Chính: Ứng phó bão số 4 và hoàn lưu sau bão

Baovannghe.vn - Thủ tướng Phạm Minh Chính đã ký Công điện số 98/CĐ-TTg ngày 18/9/2024 chỉ đạo tập trung ứng phó áp thấp nhiệt đới có khả năng mạnh lên thành bão và mưa lũ.
Tái hiện lịch sử từ khảo cổ học

Tái hiện lịch sử từ khảo cổ học

Trong số các nhà văn nữ Việt Nam đương đại, nhà văn Vũ Thanh Lịch, Phó giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình, là cây bút văn xuôi có nội lực sung mãn. Chị là tác giả của nhiều truyện ngắn hay, ghi dấu trong lòng bạn đọc mà “Nhà Thánh” - giải nhất Cuộc thi truyện ngắn Lửa mới 2018-2019 do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức là một minh chứng tiêu biểu.
Mùa thu. Truyện ngắn của Như Bình

Mùa thu. Truyện ngắn của Như Bình

Baovannghe.vn - Bà ngoại chỉ nói: "Đừng thúc ép gì nhiều. Phải tội. Đời người bạc, phận mỏng, biết sao được số trời. Mày làm thế không sợ chuốc khổ cho con bé".
Áp thấp nhiệt đới suy yếu từ Bão số 4  trên khu vực trung Lào

Áp thấp nhiệt đới suy yếu từ Bão số 4 trên khu vực trung Lào

Baovannghe.vn - Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương, sáng sớm nay (19/9), áp thấp nhiệt đới trên khu vực phía Đông Bắc quần đảo Hoàng Sa đã mạnh lên thành bão - cơn bão số 4 năm 2024.
Bản tin Văn nghệ: Cuộc thi "Đưa Văn vào đời" - trao thiệp gửi yêu thương

Bản tin Văn nghệ: Cuộc thi "Đưa Văn vào đời" - trao thiệp gửi yêu thương

Baovannghe.vn - Cuộc thi thiết kế thiệp Văn học: Đưa Văn vào đời 2024, do Nxb Hội Nhà văn phối hợp tổ chức, Hội Nhà văn Việt Nam bảo trợ chuyên môn