Diễn đàn lý luận

Thơ Văn Đắc từ góc nhìn cảnh quan

Nguyễn Thị Thúy Hạnh
Chuyện văn chuyện đời 08:00 | 21/05/2025
Baovannghe.vn - Nhà thơ Văn Đắc tên thật là Nguyễn Tiến Tới, sinh năm 1942 tại làng Triều (nay là phường Trung Sơn) thành phố Sầm Sơn. Ông là một trong những thành viên sáng lập Hội Văn học nghệ thuật Thanh Hóa. Năm 1991 ông chính thức trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
aa
Thơ Văn Đắc từ góc nhìn cảnh quan
Nhà thơ Văn Đắc. Ảnh Kiều Huyền

Trong các nhà thơ Việt Nam đương đại hiện sống và viết ở Thanh Hóa, Văn Đắc là một gương mặt thi ca tiêu biểu. Nghĩ về ông, tôi luôn nhớ về một người cả đời tận tụy với thơ ca, một người luôn “say mê, dấn thân và luôn luôn đổi mới mình”, “tự thú sâu sắc đời sống cá nhân mình để đến với đời”[1] như ông có lần chia sẻ.

Từ tập thơ đầu tiên Hai triền sông (1967 – 1973) sáng tác trong giai đoạn chống Mỹ, cho đến Biển xanh (1985) ra đời vào thời kỳ hậu chiến, và những tập thơ viết vào thời kỳ mở cửa, đi lên chủ nghĩa xã hội như Muộn mằn (1991), Đi tìm thời trẻ trai (1994), Trái tim dọc đường (1999), Lời cho em (2003 – tuyển thơ tình), Tuyển thơ Văn Đắc (2013), Một mình với Cỏ Thi (2018), Cát lầm (2022), Văn Đắc - Tuyển tập thơ (2024), có thể thấy hành trình thơ Văn Đắc ra đời và trưởng thành cùng với lịch sử của đất nước. Đọc thơ ông, có thể mường tượng ra hình ảnh của con người và cảnh quan Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ, tiếp đó, là những ngày sau thống nhất 1975 và giai đoạn Cải cách mở cửa. Với Văn Đắc, ký ức về quá khứ trở thành di sản cho hiện tại: “Lắm lúc buồn vui/ Kéo cả dãy Trường Sơn về ở/ Đất nước hình như cũng nằm trong đó/ Trái đất quay đúng chỗ tôi ngồi.” (Nhà tôi), và là chất liệu cho sáng tác của ông, tựa như “Mật trong nhụy hoa, cho loài ong cần mẫn” (Khúc hát bắt đầu từ nguồn nước).

Trong thơ Văn Đắc, mỗi tập thơ, thậm chí là mỗi bài thơ, đều kiến tạo nên một cảnh quan, một không gian. Cảnh quan – theo cách hiểu của chủ nghĩa hiện đại – là sản phẩm của sự hiểu biết và tương tác của con người với thế giới xung quanh, luôn trong trạng thái thay đổi và mang tính thời gian, nó không chỉ ghi lại hành động của con người mà còn tác động ngược lại, kích thích ký ức của con người (Bender 2002)[2]. Trong văn học, cảnh quan trở thành một biểu tượng nghệ thuật mang sắc thái quốc gia, địa phương, đồng thời là phương tiện để tác giả ký thác nội tâm và kiến tạo bản sắc cá nhân. Do đó, mỗi một cảnh quan trong tác phẩm là sự tổng hòa của không gian tự nhiên, không gian xã hội và không gian tinh thần của nhà thơ. Không gian thơ Văn Đắc vừa trải rộng theo diện vừa lắng tụ theo điểm bởi nó vươn dài theo chiều đất nước, kết nối những không – thời gian sống và trải nghiệm khác nhau của tác giả. Chẳng hạn, bài Hà Nội ghi lại những rung cảm trước thủ đô “ngàn năm văn hiến” trong lòng thi nhân từ thời trai trẻ: “Lá lúng liếng vào trăng chừng đã nói/ Một câu gì để Hà Nội bâng khuâng” (Hà Nội). Đó là một Hà Nội với “miên man bờ bãi sông Hồng” khiến nhà thơ thảng thốt nhận ra “thăm thẳm bể dâu đời người” khi tóc đã hoa râm. Đó còn là khoảnh khắc bất chợt nhói lòng khi bắt gặp một bông hoa dại trắng âm thầm “cúi đầu van vỉ” giữa thủ đô đang trên đà phát triển (Hoa dại trắng trong mơ). Phải có một tâm hồn thật tinh tế, nhà thơ mới nhận ra được trạng thái nước đôi “nửa làng quê nửa kinh thành” (Sương mù Hà Nội) của Hà Nội trong bước chuyển hiện đại hóa, với những chi tiết nhỏ nhưng khắc họa được diện mạo của thành phố này những năm đầu thế kỷ 21: “Những nõn chuối tơ, những tàu lá rách/ Cây bưởi lạc vào ngõ phố đứng đơn côi/ Giọt nước mưa đứt từ cành cây lạnh ngắt” (Mưa chiều Hà Nội). Đó cũng là Hà Nội với một vẻ đẹp của không gian bên ngoài đã thấm đẫm vào da thịt để trở thành không gian tâm tưởng bên trong:

Là không thể òa ra thành tiếng

Tự mò trong da thịt của mình thôi

Là đất Bắc, trời Nam là cỏ biếc

Là cơn mưa Hà Nội dội qua người.

Cảnh quan trong thơ Văn Đắc trước hết nên được hiểu theo nghĩa một không gian địa – văn hóa, như Bender quan niệm, nó luôn đi kèm với trải nghiệm của chủ thể, phản chiếu “hình ảnh văn hóa” và “tính vật chất của thế giới”[3]. Không gian đó không bao giờ là trung tính, nó được sống, được cảm nhận và tưởng tượng (Yi-fu Tuan)[4]; nó trở thành một phần của thế giới chuyển động, các mối quan hệ, ký ức và lịch sử (Feld và Basso)[5]. Cảnh quan chứa đựng ký ức – nơi ghi dấu những khoảnh khắc định hình danh tính cá nhân hoặc tập thể, do đó, nó có thể được sử dụng “để biểu hiện những cung bậc tình cảm, để kiến tạo căn tính, bản dạng của cá nhân cũng như cộng đồng và quốc gia, địa phương và toàn cầu”[6]. Cảnh quan đi vào tác phẩm và trở thành một hình tượng nghệ thuật, tạo dựng bầu khí quyển văn hóa, thậm chí chi phối các động hướng của diễn ngôn. Vì thế, cảnh quan trong thơ văn nói chung và cảnh quan trong thơ Văn Đắc nói riêng, cần được nhìn nhận “như một sự kiến tạo, một sự cấu thành của thế giới”[7] – cái “thế giới sự sống” (lifeworld) mà Husserl đã từng gọi tên để chỉ không gian phổ quát “bao trùm mọi phom dạng của đời sống, các sinh quyển và các lãnh địa văn hóa”[8].

Trong thơ Văn Đắc, miền Trung không chỉ là một không gian, một cảnh quan, mà còn là một nhân vật trữ tình. Trước hết, miền Trung trong thơ Văn Đắc được kiến tạo theo tư duy của nhà thơ về tiến trình và các sự kiện lịch sử. Miền Trung gắn với những huyền tích, huyền sử, những di tích còn để lại như thành nhà Hồ: “Đá thành Hồ Quý Ly/ Lấp sau trời mây biếc” (Ở Phan Rang nhớ bạn), tháp Chăm-pa uy nghiêm mà bí ẩn: “Sông qua nghìn bãi gió/ Càng thẳm sâu sa bồi” (Đỉnh núi Tháp Chàm), lầu Ông Hoàng “nắng đã tàn lối biển ông đi” (Thăm lầu Ông Hoàng). Trong lớp trầm tích của huyền thoại, cảnh quan miền Trung có vai trò như một kiến trúc tưởng tượng, nó trở thành một cảnh quan kép - không chỉ là hiện hữu vật chất trước mắt mà còn bao gồm cả cảnh quan xuyên thời gian trong trí tưởng tượng của tác giả. Do đó, cảnh quan này mang màu sắc cá nhân, nói như Ingold: “Cảnh quan không phải là một tổng thể mà bạn hay bất kỳ ai khác có thể nhìn vào, nó là thế giới mà chúng ta đang đứng để có được một điểm nhìn về môi trường xung quanh chúng ta. Và trong bối cảnh của sự tham gia chú ý vào cảnh quan này, trí tưởng tượng của con người có thể hoạt động trong việc tạo ra các ý tưởng về nó”[9] Bài thơ Dọc đường nhà Nguyễn của Văn Đắc dường như là sự khái quát và kết đọng cho tư tưởng của nhà thơ về miền Trung - một chứng tích lịch sử từ điểm nhìn xa về quá khứ:

Đi mãi không hết đời nhà Nguyễn

Mong chi được gặp lại Ngô Quyền

Trịnh Nguyễn thời sinh ra ông trạng

Biết cười thôi, chẳng biết tự thương mình

Đường dọc miền Trung ngờm ngợp cát

Lô nhô nghìn dãy núi chọc trời.

Thơ ca trở thành một bức khảm của lịch sử tâm hồn nhà thơ và dân tộc, hay nói cách khác, mỗi bài thơ là một “vi lịch sử”. Trong đó, cảnh quan đi vào thơ ca không chỉ là không gian vật lý mà còn là không gian xã hội và tâm lý, nơi các câu chuyện và ký ức được tạo dựng và chia sẻ. Bằng cái nhìn hiền hậu, nhân văn, nhà thơ khắc họa một miền Trung trải qua bao hy sinh vất vả, đau thương mà cảm động trong thời chiến: “Một túp lều con/ Sơ tán/ Nhiều túp lều con/ Thành làng sơ tán./Giặc bỏ bom ngang/ Ta xây làng dọc/ Giặc bỏ bom dọc/ Ta xây làng ngang/ Trận địa ta giăng hàng/ Rộng hơn vòng bom giặc” (Làng sơ tán); một miền Trung anh dũng, làm điểm tựa cho nhân dân cả nước khi “bom lửa cháy một thời”, nhưng vẫn giữ vẹn nguyên vẻ đẹp son sắt, trắng trong, tựa như mái tóc của người thiếu nữ “đi qua một thời chiến tranh” vẫn “không mang màu lửa khói”, “bụi đất không dính vào vai áo/ Mà tươi nguyên như lá sáng trong vườn” (Bài thơ làng Yên Vực).

Miền Trung Việt Nam với “vị trí địa lý và điều kiện địa hình khá độc đáo”, “đường bờ biển trải dài theo hướng bắc nam”, “chịu tác động khá phức tạp của các hệ thống hoàn lưu khác nhau cũng như của các nhiễu động nhiệt đới” [10] gây nên mưa lớn và nắng nóng kéo dài cũng đi vào văn chương nghệ thuật như một sinh quyển địa – văn hóa. Trong thơ Văn Đắc, miền Trung được liên tưởng với những cơn mưa “kín đất kín trời”:

“Đồng chiêm trũng hễ mưa là nước trắng…

Mưa trong mắt người vàng úng hạt mưa rơi”

“Trăng mang dáng chiếc thuyền nan kéo lúa

Làng em ở nơi xóm kè mờ tỏ

Nơi vầng trăng gặt hái buộc kề bên.”

(Mưa)

Miền Trung trở thành chủ thể thẩm mỹ trong thơ Văn Đắc. Không gian này nhiều lần được cụ thể hóa trong từng địa điểm: Nghệ An, Huế, Thanh Hóa – những vùng đất mà nhà thơ đã đi và đến, đã sống và trải nghiệm với biết bao yêu thương, gắn bó. Văn Đắc nhiều lần dừng chân ở Nghệ An, một địa phương “có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, giàu truyền thống cách mạng và tinh thần hiếu học”[11], từ đó xây dựng một cảnh quan Nghệ An bằng ngôn ngữ văn chương. Bài thơ Đồng cỏ (viết tại sông Hiếu – Nghệ An vào tháng 4 năm 1974) miêu tả khung cảnh của một nông trường tại Nghệ An trước ngày thống nhất đất nước. Nghệ An hiện ra như một thước phim đẹp với những cảnh quay chậm – “tất cả nông trường/ đều mở cửa nhìn ra đồng cỏ”: người thiếu nữ rửa chân bên bờ Khe Cái, đàn bò mê mải nơi sườn đồi, tiếng máy cày máy ủi “âm i trong núi”, đất rễ “lo toan” với người, tiếng cười trong trẻo của cô thôn nữ lẫn vào với “gió dập dờn”, ngọn khói bếp chiều dường như “biếc xanh hơn”. Trong khi đó, Thăm đền An Dương Vương (viết ở đền thờ An Dương Vương, Diễn Châu, Nghệ An năm 1974) ghi lại cảm xúc bồi hồi của nhà thơ khi lắng nghe âm hưởng của lịch sử vọng về. Lúc này, cảnh quan trong thơ không còn là một hiện hữu tự thân (being) hiểu theo nghĩa “vật tự nó” (Kant) nữa, nó được nhìn theo quan điểm về văn hóa cụ thể của nhà thơ:

An Dương Vương chau mặt, lưỡi gươm trần

Vụt lóe sáng như một lời phán xử

Thần Kim Quy đưa người về xứ bể

Nơi đục trong gạn lọc công bằng (…)

Biến ngoài kia xô gió vượt qua đầu

Tôi ngỡ thấy An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc

Chừng lông ngỗng đã hóa bờ lau trắng

Dọc đường vun vút mũi tên bay.

Miền Trung trong thơ Văn Đắc còn mang tính biểu tượng cho một Việt Nam vừa mới trải qua bom đạn, đang dần dần thay da đổi thịt. Cũng lấy bối cảnh là thành phố Nghệ An, Em ơi, thành phố ghi chép lại những tâm tư, niềm xúc động của Văn Đắc khi chứng kiến cảnh thành phố cửa ngõ miền Trung vẫn “còn bề bộn sau những ngày kháng chiến”. Trong đó, chi tiết chiếc áo mới phơi bên cánh cửa vỡ của ngôi nhà sau trận bom là chi tiết đắt giá – nó trở thành một “hình ảnh văn hóa”[12] theo cách nói của Bender – khúc xạ và đồng hiện giữa quá khứ đau thương vẫn chưa qua, hiện tại còn đang dở dang và niềm tin vào tương lai tươi sáng:

Anh lặng nhìn chiếc áo mới em phơi

Bên cửa sổ ngôi nhà bom đánh ngã

Tiếng trẻ học bài vô tư trong đó

Đã yên lành sao anh cứ băn khoăn

Và niềm tin mạnh mẽ vào tương lai của thành phố:

Từ thành phố của em tất cả sẽ bắt đầu

Từ sâu thẳm câu hò xứ Nghệ

Nghe bát ngát sông dài ra gặp bể

Phía mặt trời thành phố vẫn thường lên

Miền Trung trong thơ Văn Đắc cũng là không gian văn hóa. Đặc biệt trong những bài thơ viết về Huế - một tiểu vùng văn hóa “đặc sắc về tinh thần, đa dạng về loại hình, phong phú và độc đáo về nội dung, được thể hiện rất phong phú trên nhiều lĩnh vực như: văn học, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, phong tục tập quán, lễ hội, cách ứng xử, ăn – mặc – ở, phong cách giao tiếp, phong cách sống”[13]. Đi thuyền trên sông Hương, Một lần Huế của Văn Đắc đã nắm bắt được tinh thần Huế, bản sắc Huế bằng cái nhìn trực cảm:

Ngồi thuyền động ngước sông Hương

Mà chênh chao cả con đường miền Trung.

(Đi thuyền trên sông Hương)

Sông như hồ, hồ như sông

Cố đô Huế mà Thăng Long

Ai đó gặp rồi xa khuất mãi

Để ta dằng dặc Huế bên lòng.

(Một lần Huế)

Văn Đắc có nhiều bài tựa như những bút ký bằng thơ viết về những vùng đất nơi ông từng đến. Đó là những bài “Thơ dọc đường”[14] (tên một tác phẩm của Văn Đắc) - sự tích lũy của những ấn tượng gắn với những khoảnh khắc đời sống mà nhà thơ đã trải nghiệm. Do đó, thơ Văn Đắc thường giàu cảm xúc và đậm tính tự sự. Chẳng hạn, Ở Phan Rang nhớ bạn thể hiện tình yêu trìu mến và tha thiết của nhà thơ dành cho đất nước, con người:

Đứng trong chiều Phan Rang

Mà nhớ về Thanh Hóa

Đất nước mình dài quá

Bao nhiêu là núi sông…

Những chuyến du ký, với Văn Đắc, là cơ hội để trái tim mở rộng đón nhận tất cả những vẻ đẹp của Tổ quốc vào lòng. Đó có thể là vẻ đẹp của vũ nữ Chăm trên những bức phù điêu nghìn năm ở thánh địa Mỹ Sơn (tỉnh Quảng Nam): giữa dòng thời gian trôi “một lần đến rồi đi đi mãi”, hiện lên “một nét người” múa làm rung rinh thánh địa và xao động lòng du khách (Vũ nữ Chàm).

Không gian thơ Văn Đắc trải từ miền Bắc đến miền Trung và kết tinh, thăng hoa ở nơi “chôn rau cắt rốn” của nhà thơ - ông sinh ra, trưởng thành, chủ yếu sống và sáng tác tại đây: Xứ Thanh. Con đường thơ Văn Đắc bắt đầu từ Thanh Hóa, và dấu mốc thành công đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác của ông cũng là những bài thơ viết về quê hương (Giải thưởng báo Văn nghệ 1969 – 1970 bài Làng sơ tán, giải A Lê Thánh Tông – Hội VHNT Thanh Hóa tập Trường ca thành Tây Đô). Trong sự nghiệp thơ ca của mình, Văn Đắc viết nhiều nhất và hay nhất vẫn là về quê hương xứ Thanh, mảnh đất mà nhà thơ đã đến và đi “như một kẻ si tình” (Bài thơ làng Yên Vực). Ở một mức độ nào đó, thơ Văn Đắc tựa như một “biên niên sử” về xứ Thanh, thể hiện rõ tính chất “Topophilia” (tình cảm địa phương)[15] dành cho nơi chốn thuộc về. Đó là một Thanh Hóa đau thương, hào hùng vừa trải qua chiến tranh (Làng sơ tán), một Thanh Hóa vươn lên trong bối cảnh hậu chiến (Hoa chua me đất) cho đến những biến đổi sâu xa của vùng đất này trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa (Nơi ấy, Sau cơn mưa, Búp bê, Làng ta); đó cũng là một Thanh Hóa trữ tình qua những sinh hoạt văn hóa dân gian (Đêm Trống Mái, Hát ghẹo, Làng con gái) và hào sảng, khí phách vươn lên trong gian khó (Tôi người Thanh Hóa, Khúc hát bắt đầu từ nguồn nước).

Xét về mặt văn hóa, vùng đất Thanh Hóa có sự hiện diện tập trung “ở mức độ cao những tín ngưỡng điển hình của Bắc Bộ và phần nào đó của Trung Bộ” – như Hoàng Bá Tường khẳng định: “Trên đất nước ta có bao nhiêu tôn giáo tín ngưỡng thì ở xứ Thanh cũng có bằng ấy tôn giáo tín ngưỡng được người dân ở đây ngưỡng vọng và chiêm bái”[16]. Lịch sử và huyền thoại của Thanh Hóa hiện lên trong thơ Văn Đắc qua nhiều điển xưa tích cũ (Ở Động Từ Thức, Hoa mẫu đơn trắng trước đền Bình Khương, Đảo Nẹ). Chuyện Từ Thức gặp tiên, nàng Bình Khương gieo mình vào đá chết theo chồng ở thành nhà Hồ, cho đến chuyện Mai An Tiêm thủa xưa lạc ra đảo đã đi vào thơ ông một cách truyền cảm.

Tuy nhiên, ấn tượng hơn cả là bài thơ Tôi người Thanh Hóa của Văn Đắc. Đây xứng đáng được xem là bài thơ hay nhất viết về đất và người Thanh Hóa trong thi ca đương đại – đồng thời cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu và xuất sắc nhất của đời thơ Văn Đắc:

Phía Đông là biển

Phía Bắc là dãy Tam Điệp

Phía Tây là biên giới Lào Việt

Phía Nam là núi Chẹt

Toàn vần Trắc

Cao thấp chập chờn

Sóng nước, sóng đất

Đâu phải vần bằng mà tung tăng rong chơi

Mênh mông là trời

Thì ra ngoài mà ngó

Trời Thanh Hóa của tôi là cái vó

Thả lúc nào cũng vớt được tôi lên…

Tôi người Thanh Hóa là một biên niên sử về xứ Thanh – vùng đất “thang mộc”, “địa linh nhân kiệt”, nguồn cội của những di sản văn hóa phong phú, rực rỡ. Khí phách của con người nơi núi Hàm Rồng sông Mã được Văn Đắc khắc tạc sinh động, tài hoa: “Chạm chén tềnh toàng/ Thích bông lơn kiểu Trạng Quỳnh/ Thích nghênh ngang kiểu anh hùng xứ Thanh/ Thích thì vác đá xây thành/ Uất thì chọc thủng trời xanh mà cười” (Tôi người Thanh Hóa). Tinh thần hào sảng đó gợi nhớ đến chất anh hùng ca trong thơ Trần Mai Ninh: “A, gần lắm/ Ta gần máu/ Ta gần người/ Ta gần quyết liệt” (Nhớ máu) hay âm hưởng dội vang trong thơ Hữu Loan: “Mây trời Ai Lao sầu đại dương”, “Râu ngược chào nhau bên dốc núi” (Đèo Cả). Mặc dù không thuộc “tứ trấn nội kinh” (“Xứ Bắc, Xứ Đông, Xứ Đoài, Xứ Nam vây quanh Thăng Long xưa, tương ứng với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ tiếp giáp với Hà Nội ngày nay”), mà được xem là “ngoại trấn”, là “trại”, là “đất phên dậu”, là “vùng ngoại vi của trung tâm văn hoá - chính trị Thăng Long hay Huế - Phú Xuân”, nhưng Thanh Hóa vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong chính trị, quân sự và kinh tế trong bối cảnh chung của đất nước: “Nằm ở vị trí giữa Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, địa hình đa dạng, xứ Thanh không chỉ được biết đến là vùng đất phên dậu của Tổ quốc mà còn trở thành hậu cứ vững chắc của hầu hết các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm”[17]. Vị trí địa - chính trị, địa - văn hoá này cũng tạo cho xứ Thanh những sắc thái văn hoá mang tính đặc thù: “Nếu đồng bằng Bắc Bộ là châu thổ của hệ thống sông Hồng, thì đồng bằng Thanh Hoá chính là châu thổ của hệ thống sông Mã- sông Chu”. Do vậy Lê Bá Thảo cho rằng, quang cảnh đồng bằng Thanh Hoá như là sự lặp lại một phần của đồng bằng châu thổ sông Hồng[18]. Với địa hình “núi non chiếm 2/3 diện tích cả tỉnh, một số mạch núi kế tiếp mạch núi vùng Tây Bắc chạy sát ra biển”, Thanh Hóa “có cảnh quan đồng bằng, biển và rừng núi nối kết và cận kề nhau hơn, làm tăng tính chất rừng và biển của đồng bằng”[19]. Tóm lại, Thanh Hóa là địa phương mà cả văn hóa núi, văn hóa biển và văn hóa đồng bằng cùng ngự trị. Trong thơ Văn Đắc viết về Thanh Hóa có sự hiện diện của cả ba cảnh quan núi - đồng bằng – biển như vậy.

Thơ Văn Đắc vẽ lại khung cảnh đồng bằng bình yên mà đẹp đẽ, cảm động của làng Yên Vực – ngôi làng “nằm kề núi Rồng, núi Ngọc” qua chi tiết: “Cô gái sắn quần lội qua phù sa/ Đẩy chiếc thuyền nan nho nhỏ” trong cảnh ban mai “Làng Yên Vực sáng nay tràn nắng đỏ”. Mỗi câu mỗi chữ đều thắm thiết tình yêu của tác giả dành cho mảnh đất này:

Con chim khách thường về đây mách lẻo

Xạc xào vườn mít vườn cau…

Nhiều bài thơ viết về đồng bằng của Văn Đắc mang cảm hứng nhân sinh thế tục, trong đó, ông giãi bày, chuyển hóa kinh nghiệm hiện thực thành triết lý sâu sắc và đậm tính cá nhân. Vẻ đẹp trong trẻo sinh động của đồng bằng miền Trung Việt Nam được Văn Đắc khắc họa bằng những chi tiết đắt giá: “Tiếng gà đẻ/ Lăn ra/ Mùa hạ” (Mùa hạ), “Kìa, đồng bằng (…) Lặn lội như cò mà trắng muốt/ Trắng tinh bộ áo cánh vá may từ trong trứng/ Con cò, con vạc sinh ra ca dao,/ con sẻ đồng sinh ra câu hát,/ con bướm, con ong thả cánh làm diều” (Chuyện một dòng sông). Ấy là vùng đồng bằng “hoa trắng chảy trong mưa” với bao nỗi niềm khắc khoải: “con cuốc lặn lội bên hồ vắng, gọi đỏ hai mùa quả chín”, “con cuốc lủi trong cỏ, ngửa cổ qua từng gốc cây, gọi từ lúc hoa dang nụ” (Mùa hoa vải thiều). Làng Triều – một phần máu thịt của đồng bằng Thanh Hóa – cũng là nơi chôn rau cắt rốn của Văn Đắc đã được ông đưa vào thơ ca và thi tứ hóa như một đối tượng trữ tình với những chất liệu đậm tính dân gian như: khoai, tre, bát cơm, rau răm, áo tơi, cua ốc…:

Thương làng đỏ xọng gai tre

Cát bỏng rộp cả mùa hè dưới chân

Khoai hà phơi trắng mặt sân

Bát cơm thì thiếu, rau răm thì thừa

Cửa sông lắm lạch, nhiều sò

Áo tơi, nón rách đi mò ốc cua…

Sinh ra ở vùng biển Quảng Tường đầy nắng và gió, nay thuộc thị xã Sầm Sơn, một cửa sông Mã, vốn là đất Quảng Xương xưa[20], nên dễ hiểu trong thơ Văn Đắc, biển là yếu tố nổi trội hơn cả. Nếu như đồng bằng trong thơ Văn Đắc tượng trưng cho sự bình yên, màu mỡ, kết tinh của nền văn hóa nông nghiệp, thì sông, biển là biểu tượng của sức mạnh, sự thanh thản, cội nguồn và nguồn sống:

Suốt dọc hai triền sông Bưởi

Anh lên tắm nước ngọn nguồn

Nhìn hạt phù sa quen lắm

Chảy giữa hai bờ núi non

Bao giờ anh về miền xuôi

Đứng trước vô cùng biển rộng

Nhìn hạt phù sa đỏ thắm

Lòng anh lại nhớ ngọn nguồn.

(Hạt phù sa)

Biển nuôi sống và đồng hành với con người:

Sân biển rộng sớm chiều vỗ sóng

Đời là thật đất là xứ mộng

Đêm thuyền câu, ngày thuyền hóa con đò.

Biển cách sông trở một cánh buồm qua

Chiều ra bể, sáng đã về quét ngõ.

(Cảm xúc làng biển)

Hình ảnh người dân làng chài với tầm vóc ngang bằng vũ trụ được tạc giữa khung cảnh rực rỡ và lộng lẫy của biển bạc:

Bác dân chài

Đi kheo ra biển

Hai guốc gỗ làm thuyền, làm lái

Sóng vỗ qua vai

Sóng lắc

Suốt ngày

Chiếc vó vàng một rang mây

Chìm vào đáy bể (…)

Chiều về

Bác vác đôi kheo trên vai

Hai bàn chân kheo lộn ngược

Và tôi thấy

Biển nằm ngang trên vai bác.

(Đi kheo)

Áo tơi lá nón

Mái chèo dựng vai

Người đi biển hóa cây buồm trước gió.

(Mùa đông vào nhà)

Biển cũng là nơi neo giữ tình yêu của nhà thơ dành cho quê hương, là chứng tích của lịch sử văn hóa:

Trời cửa Lạch như một vần thơ cổ

Tôi đâu nghĩ giữa nơi đầy sóng gió

Một câu Kiều sáng sớm đã sang sông.

(Cảm xúc làng biển)

Biển chứng kiến lịch sử ra đời và tồn tại, xây dựng và đấu tranh của cư dân, biển cũng gắn với những truyền thuyết, truyện cổ tích xa xưa kể về những mối tình bất tử. Do đó, biển còn đại diện cho tiềm thức cá nhân và tập thể, là trung tâm của di sản văn hóa và tâm linh:

Con cháu làng chài xưa chuyển đi nơi khác

Có người lùi xa về phía sau nhìn ra làng cũ

Có người lên núi trồng cây, đi tứ xứ làm thợ…

(Chuyện ở làng Chài)

Biển còn là lời nhắc nhở về sự mong manh của cuộc sống và tầm quan trọng của việc sống hòa hợp với thiên nhiên. Hóa thân vào biển, nhà thơ viết:

Ta đã bám chặt vào đất bằng những con sông

Ta nhận tất cả lượng mưa cho người được yên lòng

Ta đã rút máu ta làm cho máu mặn

Vùi lấp đi hàng ngàn con sóng

Để con người hòa thuận ở bên ta

(Lời của biển)

Cũng từ biển mà nhà thơ nảy sinh chiêm nghiệm về biển, về đời người: “Bản lĩnh của biển/ Là sóng!” (Trước biển), “Biển ngàn đời/ Biển có già đâu” (Biển xanh), từ đó nhận thức lại chính mình (Chỉ sợ), khát vọng vươn tới những bờ bến mơ mộng (Lời cây buồm). Biển được đặt trong cái nhìn tương quan với giai nhân qua lăng kính đầy mỹ cảm (Thiếu nữ hát trước biển), biển gắn với tình yêu đôi lứa (Trước biển tìm em, Biển và em), biển như một tự sự của lịch sử cá nhân (Chuyện một dòng sông). Chất mặn mòi của biển đã để lại trong thơ Văn Đắc những câu thơ lấp lánh như ngọc:

Em cầm gió mặn đi xa

Để cho biển chết trong da thịt người

(Biển và em)

Nhìn chung, thơ Văn Đắc phong phú màu sắc địa - văn hóa. Ngoài yếu tố biển và đồng bằng, “núi” cũng xuất hiện không ít trong thơ ông, tạo nên một tam giác cảnh quan “núi – đồng bằng – biển” vốn là đặc trưng của văn hóa Đông Nam Á[21]:

Sông Mã đổ vào đất Thanh

Qua cửa ngõ Tén Tần

Lấy người bản Lát níu mây qua sông

Lấy nước Tén Tần làm nên rượu cần

Người Mông xưa du cư nay ở lại với núi

Người Mông hái đào bên sườn núi Tây

Địu sang sườn núi Đông

(Tôi người Thanh Hóa)

Yếu tố “núi” được đồng hóa với nhân vật Sơn Tinh trong truyện truyền thuyết dân gian. Theo nhãn quan của nhà thơ, đất nước được tượng hình bởi “núi” – đó là biểu tượng đại diện cho sức mạnh đoàn kết của dân tộc, cho thành trì vững vàng của đất nước qua bao biến thiên của lịch sử:

Những con đê biết phủ lên mình

ẩm ướt hai bờ sương cỏ

Những con đê ngoằn ngoèo qua nhiều trang sử

Những con đê dọc núi, dọc sông

Những con đê hằn lên bao nếp nhăn

Những con đê tạc vào đất cổ

Những con đê giăng giăng trước bể

Những con đê hơn Vạn Lý Trường Thành

Đất Nước này – ĐẤT NƯỚC SƠN TINH.

(Khúc hát bắt đầu từ nguồn nước)

Sẽ là thiếu sót nếu không nói đến phương diện ngôn từ nghệ thuật trong thơ Văn Đắc. Ngôn ngữ trong thơ Văn Đắc biểu hiện cho căn cước văn hóa của chủ thể sáng tác nhưng đồng thời cũng cho thấy dấu ấn vùng miền và sự quy chiếu của bối cảnh xã hội – văn hóa đương thời. Xét về mặt tổ chức ngôn ngữ, thơ Văn Đắc thường giàu nhịp điệu – mà nhịp điệu là một yếu tính của thơ trữ tình, như Jonathan Culler nhấn mạnh: “Thơ ca có trật tự riêng, trật tự đó đem lại khoái cảm, do đó không cần phải hỏi về nghĩa, tổ chức nhịp điệu cho phép ngôn ngữ lách qua thành trì trí tuệ và ẩn mình vào trí nhớ cơ học”[22]. Shira Wolosky cho rằng, ngôn ngữ trong thơ, ở một mức độ đặc biệt, là vật chất. Thơ ca tôn vinh tính vật chất của ngôn ngữ - biểu hiện ở hình dạng, âm thanh, nội dung của các từ - những thứ thể hiện và cấu trúc nên ngôn ngữ thơ[23]. Trong đó, nhịp điệu trở thành “nền tảng cơ bản của trải nghiệm thơ ca, cũng là nền tảng mạnh mẽ nhất (và thú vị nhất)”[24]. Cũng trên tinh thần đề cao yếu tố nhịp điệu, Nguyễn Đình Thi quan niệm nhịp điệu là yếu tố then chốt của thơ hiện đại: “Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc trắc, lên bổng xuống trầm như tiếng đàn êm tai, một người ngoại quốc không biết tiếng ta cũng có thể nghe thấy được (…). Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh tình ý, nói chung là của tâm hồn (…). Đó là nhịp điệu hình thành của những cảm xúc, hình ảnh liên tiếp hòa hợp, mà những tiếng và chữ gọi ra như những ngân vang dài, ngay những khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động”[25] Theo tôi, những bài thơ hay nhất của Văn Đắc, ở các thể thơ khác nhau (lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn hay tự do), thường là những bài thơ giàu nhịp điệu, dù là nhịp điệu khoan thai như mái chèo đưa trên sông nước, bay bổng như “cánh chim bay dọc ngang” hay “cao thấp trập trờn” đầy thách thức thì điểm chung là đều được biểu hiện một cách tự nhiên, giản dị và giàu cảm xúc (Áo tím, Em và phố, Hà Nội, Mưa, Lúa, Hoa huệ, Với cỏ, Làng Triều, Biển và em, Tôi người Thanh Hóa…).

Tóm lại, cảnh quan trong văn học và văn hóa không phải là một thực thể tĩnh mà là một không gian động, liên tục phản ánh các mối quan hệ xã hội, chính trị và văn hóa. Cảnh quan là nơi con người tương tác, tranh đấu và gây dựng ý nghĩa, đóng vai trò then chốt trong việc hiểu biết về bản sắc và lịch sử của các cộng đồng. Trong thơ Văn Đắc, trải nghiệm về cảnh quan đã được cá nhân hóa, trở thành kinh nghiệm thẩm mỹ của riêng nhà thơ. Quê hương Thanh Hóa - nơi sinh thành và nuôi dưỡng tâm hồn thi nhân đã dệt nên “những tế bào đầu tiên, nguyên sơ của tâm hồn con người” (Xuân Diệu). Thơ Văn Đắc mang tính trội của vùng đất Thanh Hóa: vừa đậm chất anh hùng, hào sảng, khí phách, vừa trữ tình, nồng ấm, thiết tha. Chất Thanh Hóa đã làm nên cốt cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của Văn Đắc và trở thành một nét không hòa lẫn, không trùng lặp của ông so với những tác giả khác. Những bài thơ viết về miền Trung nói chung, Thanh Hóa nói riêng của Văn Đắc trước hết là “tiếng vọng cuộc đời”[26] của chính nhà thơ, nhưng rộng hơn thế, đó cũng là “thế giới chúng ta đang sống”[27], là những tự sự đương đại đã được khúc xạ và trình hiện trên trang giấy qua qua lăng kính giàu mỹ cảm của thi ca.


[1] Dẫn theo Lê Bá Thự, “Văn Đắc bạn tôi – nhà thơ “tự thú”, in trong Thơ Văn Đắc, Nxb Hội nhà văn, 2013, tr. 222.

[2] Barbara Bender (2002), “Time and Landscape”, Current Anthropology, Vol. 43, No. S4, Special Issue Repertoires of Timekeeping in Anthropology, The University of Chicago Press, pp. S103-S112.

[3] Barbara Bender (2001), “Landscapes on the move”. Journal of Social Archaeology, Volume 1, Issue 1.

[4] Yi-fu Tuan (1990), Topophilia: A Study of Environmental Perception, Attitudes, and Values Columbia University Press; Reprint edition.

[5] Steven Feld (Editor), Keith H. Basso, Senses of Place, School for Advanced Research Press, 1996.

[6] Nguyễn Thị Thu Thủy và Hoàng Cẩm Giang (2003), Bài “Dẫn nhập”, in trong Cảnh quan Việt Nam trong văn học và điện ảnh, Nxb Đại học Quốc gia, tr. 11.

[7] Denis E. Cosgrove (1984), Social Formation and Symbolic Landscape. Madison: University of Wisconsin Press, p. 13.

[8] Nguyễn Thị Thu Thủy và Hoàng Cẩm Giang, Tlđd, tr. 11.

[9] Tim Ingold (1993), The Temporality of the Landscape, World Archaeology 25: 2 Dẫn theo Nguyễn Thị Thu Thủy và Hoàng Cẩm Giang, Tlđd, tr. 13.

[10] Ngô Đức Thành, Nguyễn Quang Trung, Phan Văn Tân, Hồ Thị Minh Hà (2011), “Dự tính biến đổi khí hậu cho khu vực miền Trung Việt Nam bằng phương pháp hạ quy mô động lực”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 3S (2011) 70-79 70, tr. 71.

[11] Quang Minh, “Phát triển văn hóa để xây dựng con người Nghệ An toàn diện trong thời kỳ mới”, https://lienhiepkhktnghean.org.vn/thong-tin-khoa-hoc/giao-duc-dao-tao/phat-trien-van-hoa-de-xay-dung-con-nguoi-nghe-an-toan-dien-trong-thoi-ky-moi-580.html.

[12] Barbara Bender (2001), “Landscapes on the move”, Journal of Social Archaeology, Volume 1, Issue 1.

[13] Nguyễn Văn Quang (2017), “Ảnh hưởng của văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh”. Tạp chí Khoa học – Đại học Huế, Tập 126, Số 6A, 2017, Tr. 95–102.

[14] In trong Văn Đắc (2013), Thơ Văn Đắc, Nxb Hội nhà văn.

[15] Yi-fu Tuan. Tlđd.

[16] Hoàng Bá Tường, “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa xây dựng và phát triển văn hóa, con người tỉnh Thanh trong thời kỳ hội nhập, phát triển”, Nguồn: Văn hóa và đời sống Thanh Hóa online.

[17] Hà Nguyễn (2016), Tiểu vùng văn hóa Xứ Thanh, Nxb Thông tin và truyền thông. tr. 12.

[18] Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới.

[19] Lê Bá Thảo. Tlđd.

[20] Theo Lưu Đức Hạnh, “Con đường thơ Văn Đắc”, in trong Thơ Văn Đắc, Nxb Hội nhà văn, 2013, tr. 268.

[21] Xem thêm: Phạm Đức Dương (2001), Văn Hóa Đông Nam Á, Nxb Giáo dục.

[22] Jonathan Culler (2020), Nhập môn: Lý thuyết văn học, Phạm Phương Chi dịch, Nxb. Hội nhà văn, H., tr. 123.

[23] Shira Wolosky (2001), The Art of Poetry. Oxford University Press, tr. 151.

[24] Shira Wolosky (2001). Sđd. tr. 149.

[25] Nguyễn Đình Thi (1949), “Mấy ý nghĩ về thơ”, in lại trên Tạp chí Tác phẩm Mới, số 3 năm 1992.

[26] Từ dùng của Mã Giang Lân trong Những cấu trúc của thơ, Nxb Đại học Quốc gia, 2011, tr. 228.

[27] John Wylie, Landscape: Key Ideas in Geography, New York: Routledge, 2007, p. 3.

Đọc truyện: Người tan vào không khí - Truyện ngắn của Vũ Xuân Tửu

Đọc truyện: Người tan vào không khí - Truyện ngắn của Vũ Xuân Tửu

Baovannghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương
Báo Văn nghệ hòa chung dòng chảy 100 năm Báo chí cách mạng Việt Nam

Báo Văn nghệ hòa chung dòng chảy 100 năm Báo chí cách mạng Việt Nam

Baovannghe.vn - Sáng 19/6 gian trưng bày tại Hội Báo toàn quốc 2025 của báo Văn nghệ đã hoàn tất, sẵn sàng phục vụ bạn đọc với những ấn phẩm gây ấn tượng mạnh mẽ
Phát hành bộ tem kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam

Phát hành bộ tem kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam

Baovannghe.vn - Bộ tem đặc biệt kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam đã được Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng Hội Nhà báo Việt Nam phát hành trong khuôn khổ Hội Báo toàn quốc 2025 tại Hà Nội, sáng 19/6.
Quốc hội bước vào phiên chất vấn và trả lời chất vấn

Quốc hội bước vào phiên chất vấn và trả lời chất vấn

Baovannghe.vn - Sáng 19/6, Quốc hội bước vào phiên chất vấn và trả lời chất vấn, dưới sự chủ trì của Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn.
Khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025

Khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025

Baovannghe.vn - Báo Văn nghệ tham dự Hội Báo toàn quốc năm 2025 với chủ đề, Báo chí cách mạng tự hào hành trình 100 năm, vững bước vào kỷ nguyên mới.