Trước đây, các đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Ngữ văn thường hiếm khi sử dụng thơ làm ngữ liệu đọc hiểu mà chủ yếu là những bài làm văn với những tác phẩm có sẵn trong sách giáo khoa. Nhưng năm nay, với việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 cùng yêu cầu ra đề phải dùng ngữ liệu ngoài sách giáo khoa thì đề thi bỗng nghiêng về thơ trong phần đọc hiểu. Việc lựa chọn tác phẩm thơ đưa vào đề thi phần nào phản ánh quan niệm giáo dục văn chương cũng như giá trị thẩm mỹ, tư tưởng mà ngành giáo dục (thông qua người ra đề) muốn truyền tải nhưng cũng cho thấy khoảng cách giữa thơ trong trường học và thực tế đời sống thơ. Bài viết này khảo sát các đề thi tuyển sinh lớp 10 của các tỉnh/ thành có tổ chức thi tuyển sinh, có sử dụng thơ làm ngữ liệu đọc hiểu, nhằm: tìm hiểu cách thức sử dụng thơ trong thi cử so với đời sống thơ Việt đương đại; đánh giá vị thế của thơ trong giáo dục chính quy hiện nay và độ mở về thẩm mỹ, tư tưởng của việc dạy – học thơ, dưới góc nhìn lý luận phê bình cùng văn hóa giáo dục.
2. Theo thông tin từ VTC News, năm 2025, cả nước có 4 tỉnh không tổ chức thi tuyển sinh vào lớp 10, còn lại 59 tỉnh thành đều tổ chức thi, trong đó môn Ngữ văn là bắt buộc. Trong số đó, chúng tôi thống kê được có 41 tỉnh, thành phố sử dụng thơ làm ngữ liệu đọc hiểu. Khảo sát các đề thi tuyển sinh đó cho thấy thơ của 33 tác giả được chọn làm ngữ liệu. Lưu Quang Vũ là tác giả được trích dẫn nhiều nhất với 4 lượt (Nói với con cuối năm, Qua sông Thương, Gửi mẹ, Áo). Tiếp đó, các nhà thơ Tạ Bá Hương, Trần Đăng Khoa và Tố Hữu cùng xuất hiện 2 lần. Những tác giả còn lại như Huy Cận, Nguyễn Bính, Giang Nam, Nguyễn Phan Quế Mai, Đoàn Văn Cừ, Đỗ Trung Quân... mỗi người có một tác phẩm được chọn. Điều này cho thấy đề thi trải rộng trên một phổ tác giả khá đa dạng (có tác giả thời Thơ Mới, tác giả thời chống Pháp, chống Mỹ và các gương mặt thơ trẻ đương đại), nhưng hiếm khi lặp lại cùng một tác giả ngoại trừ một vài tên tuổi nhất định. Đặc biệt trong này thơ của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng được đưa vào đề thi tỉnh Lạng Sơn. Việc Lưu Quang Vũ được trích dẫn nhiều nhất cho thấy thơ anh có sức hấp dẫn đối với người ra đề vì giàu cảm xúc nhân văn và tương đối gần gũi học trò (đề cập tình cảm gia đình, quê hương, khát vọng tuổi trẻ...). Tương tự, Trần Đăng Khoa (một “thần đồng thơ” thời kháng chiến chống Mỹ) hay Tạ Bá Hương (một tiếng thơ trẻ đương đại giàu hoài niệm quê hương) cũng được ưu ái.
![]() |
Học sinh ra về khi hoàn thành bài thi trung học phổ thông |
3. Các bài thơ được đưa vào đề thi Ngữ văn 10 thường xoay quanh một số chủ đề truyền thống, nổi bật là tình yêu quê hương, đất nước và chủ nghĩa yêu nước. Ví như Tổ quốc gọi tên (Nguyễn Phan Quế Mai) thể hiện tình yêu tổ quốc và ý thức chủ quyền biển đảo; trích đoạn Bài thơ quê hương (Nguyễn Bính) ngợi ca truyền thống văn hóa Việt qua hình ảnh truyện cổ, qua các anh hùng dân tộc; bài Bác ơi! (Tố Hữu) bộc lộ niềm tiếc thương lãnh tụ Hồ Chí Minh và nhắc nhở lý tưởng cách mạng; bài Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài (Trần Đăng Khoa) tái hiện tinh thần lạc quan, yêu đời vượt qua mọi gian khổ quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của người lính đảo xa. Có thể thấy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống dân tộc là dòng chảy đậm nét trong các ngữ liệu thơ của đề thi.
Thứ hai là mảng thơ về tình cảm gia đình (đặc biệt là tình mẹ – con, cha – con). Nhiều bài thơ khai thác tình mẫu tử, phụ tử thiêng liêng và sự hy sinh của cha mẹ. Các bài Kính gửi mẹ (Ý Nhi) và Nghĩ về mẹ (Lâm Thị Mỹ Dạ) đều viết về tấm lòng người mẹ đối với con trong những gian lao thường ngày. Bài Mẹ (Trường Phi Bảo) là lời người con trưởng thành thấu hiểu nỗi vất vả và tình yêu bao la của mẹ. Bài Áo (Lưu Quang Vũ) mượn hình ảnh chiếc áo qua năm tháng để nói về sự trưởng thành của con và sự già đi của mẹ – qua đó ca ngợi đức hy sinh thầm lặng vì con của mẹ.
Mảng thứ ba là thơ về tuổi trẻ, trường học và hành trình trưởng thành. Nhiều ngữ liệu thơ gắn liền với môi trường học đường, khát vọng và kỷ niệm tuổi học trò. Bài Cho mùa thi (Bình Nguyên Trang) viết về mùa thi và khoảnh khắc chia tay thời học sinh gợi nỗi xúc động khi sắp rời trường. Bài Hạnh phúc (Giang Nam) trích cảnh người cha lần đầu được đưa con đến trường sau ngày đất nước thống nhất, diễn tả niềm hạnh phúc giản dị mà lớn lao của bậc làm cha mẹ trong hòa bình. Bài Con nằm (Tế Hanh) lại khắc họa tuổi thơ êm ấm của em bé nằm giữa cha và mẹ, qua đó tôn vinh mái ấm gia đình như điểm khởi đầu đẹp đẽ trên hành trình khôn lớn. Nhóm chủ đề này nhấn mạnh ý nghĩa của tuổi trẻ, giáo dục và những ước mơ trưởng thành – rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi dự thi vào lớp 10.
Ngoài 3 đề tài chính nêu trên, thơ trong các đề thi còn là những hoài niệm quê hương, tuổi thơ và vẻ đẹp đời sống thường nhật. Một số bài thơ gợi nỗi nhớ da diết về quê nhà, cảnh cũ, hoặc tôn vinh vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của cuộc sống thôn quê như Nhớ dừa (Lê Anh Xuân), Ngẩn ngơ tìm (Nguyễn Ngọc Hưng), Bữa cơm quê (Đoàn Văn Cừ)... Những bài thơ này khơi dậy tình yêu và sự trân trọng đối với quê hương, gia đình, những giá trị truyền thống tốt đẹp đã nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người. Các bài thơ có thông điệp về lẽ sống, nhân sinh quan cũng gây cảm hứng cho học sinh như Ngụ ngôn của mỗi ngày của Đỗ Trung Quân, Dặn con của Đoàn Mạnh Phương...
Đặc biệt có đề thi đặt ra vấn đề xã hội khá gần gũi và hấp dẫn với học sinh trung học cơ sở như Sông Vinh của Vũ Toàn đề cập đến nạn ô nhiễm môi trường. Tuy vậy, đây là trường hợp khá hiếm hoi trong đề thi. Nhìn chung, đa phần ngữ liệu thơ vẫn tập trung vào các đề tài truyền thống hơn là các vấn đề xã hội gai góc.
Tóm lại, chủ đề thơ trong đề thi tuyển sinh lớp 10 năm 2025 giàu tính nhân văn và truyền thống. Các đề tài quá mới mẻ hoặc gây tranh cãi hầu như vắng bóng. Có thể nói, độ mở của đề tài trong thơ được chọn còn tương đối hạn chế trong phạm vi quen thuộc và “an toàn”.
4. Từ những phân tích trên có thể thấy, thơ ca giữ một vai trò quan trọng trong đề thi Ngữ văn. Thơ được dùng làm phương tiện truyền tải những giá trị văn hóa, lịch sử và đạo đức tới học sinh. Tuy nhiên, khi đặt hiện tượng này bên cạnh đời sống thơ Việt đương đại, chúng ta nhận ra một số điểm đáng suy ngẫm về độ mở thẩm mỹ và tư tưởng của thơ trong đề thi so với thực tế bên ngoài. Trước hết, về độ phổ biến và vị thế hiện nay, thơ không còn là “món ăn tinh thần” chủ đạo như vài thập niên trước vì công chúng có nhiều lựa chọn giải trí khác làm cho vị thế thơ ca suy giảm phần nào. Tuy nhiên, nghịch lý là số người sáng tác thơ lại đông đảo hơn bao giờ hết, nhờ sự bùng nổ của mạng xã hội và internet. Nhà thơ Đoàn Văn Mật cho biết mỗi năm chỉ riêng phần thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã giới thiệu 700-800 tác phẩm của khoảng 400 tác giả. Một con số ấn tượng trên báo giấy nhưng “không ăn thua gì” so với số lượng thơ được công bố trên không gian mạng. Thơ đang “nảy nở” trên mạng. Bất cứ ai cũng có thể sáng tác và chia sẻ bài thơ của mình đến đông đảo người đọc chỉ với một cú click chuột. Hiện tượng này chứng tỏ người Việt vẫn rất yêu thơ, làm thơ nhiều, tạo nên bề rộng phong trào sáng tác. Tuy nhiên, mặt trái là “quá nhiều thơ, quá nhiều người viết” đã tạo thành “màn sương” dày đặc, khiến độc giả khó phân biệt đâu là tác phẩm thực sự có giá trị.
Trong bối cảnh đó, thơ trong các đề thi tốt nghiệp cấp trung học cơ sở dường như vẫn giữ thiên hướng tuyển chọn và lọc lựa kỹ càng qua góc nhìn của các nhà giáo dục. Chỉ những tác phẩm đã được khẳng định hoặc phù hợp chuẩn mực mới được đưa vào giảng dạy và kiểm tra, đánh giá. Các thầy cô giáo ra đề giống như “màng lọc để cho phép những tác phẩm tốt” đến tay học sinh. Điều này cũng giống vai trò của các tạp chí văn nghệ uy tín – nhằm “gạn đục khơi trong” cho công chúng văn học. Hiện tượng này hoàn toàn dễ hiểu về mặt giáo dục: chương trình không thể chạy theo “độ phổ biến” tràn lan trên mạng, mà phải đảm bảo chất lượng và tính định hướng. Song cũng vì thế, độ mở của thơ trong các đề thi tốt nghiệp có phần hạn chế so với sự đa dạng ngoài xã hội.
Về nội dung tư tưởng, có thể nhận thấy thơ được chọn trong đề thi hầu hết đều truyền tải thông điệp tích cực, chính thống và mang tính giáo dục cao. Những đề tài nhạy cảm hoặc xa với định hướng giáo dục hầu như không xuất hiện. Ta không thấy trong đề thi những bài thơ đương đại nói về mặt trái xã hội, bi kịch cá nhân, hay phản biện hiện thực một cách gai góc – mặc dù trong đời sống thơ hiện nay, không ít tác giả trẻ đã đề cập đến các khía cạnh đó. Chẳng hạn, thơ trên internet nhiều khi là nơi người viết “chơi đùa với mọi thứ nghiêm túc”, phá vỡ những cấm kỵ hoặc bày tỏ cái tôi một cách bản năng. Nhưng dòng thơ “phá cách” ấy không được đưa vào đề thi có lẽ vì chưa phù hợp với đối tượng học sinh phổ thông hoặc không đáp ứng tiêu chí giáo dục. Không những vậy, xã hội Việt Nam còn tỏ ra khá dè chừng và dị ứng với những ngữ liệu đề thi có yếu tố khác truyền thống một chút. Trường hợp đề thi của Bà Rịa Vũng Tàu chỉ có vài hình ảnh về em bé bán vé số với một vài cách diễn đạt lạ (trăng nhóng nhánh, trăng sáng suông tình cũng thế thôi, dan díu trên đường...) ngay lập tức đã trở thành đề tài tranh luận trên không gian mạng.
Xét về hình thức nghệ thuật, thơ đương đại Việt Nam rất phong phú, với nhiều xu hướng cách tân mạnh mẽ từ sau Đổi mới 1986. Những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Đỗ Doãn Phương... đã mở rộng biên độ thẩm mỹ của thơ Việt bằng những hình ảnh siêu thực, cấu trúc tự do, ngôn ngữ đa thanh... Tuy nhiên, nếu nhìn vào danh sách tác phẩm thơ trong đề thi, ta sẽ thấy ít dấu hiệu của trường phái cách tân cực đoan. Đa số bài thơ vẫn viết theo lối tự do hoặc truyền thống tương đối dễ cảm, ngôn ngữ gần gũi, ít nhiều giàu nhạc điệu và hình ảnh quen thuộc. Ví dụ, những bài lục bát hoặc thất ngôn (Nguyễn Bính, Tố Hữu) vẫn xuất hiện bên cạnh thơ tự do. Có thể nói, các thầy cô ra đề (hay nói rộng hơn là quan điểm ra đề của tỉnh, thành phố và toàn ngành giáo dục) chấp nhận hình thức thơ hiện đại (đa số các bài đều là thơ tự do thời kỳ sau 1975), nhưng đó là sự hiện đại không quá xa rời cảm thụ thông thường. Những bài thơ quá “tượng trưng” hoặc quá cách tân hầu như vắng bóng. Điều này một phần do yêu cầu sư phạm: học sinh 15 tuổi khó lĩnh hội những thi phẩm quá phức tạp về thi pháp. Mặt khác, nó cũng phản ánh định hướng thẩm mỹ mang tính trung dung của chương trình Ngữ văn – trân trọng phong cách truyền thống, đồng thời khuyến khích những tìm tòi đổi mới ở mức vừa phải.
Một khía cạnh khác cũng rất thú vị là sự xuất hiện của thơ mạng xã hội trong đời sống đương đại và việc nó gián tiếp tác động tới việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường. Nhiều giáo viên và học sinh ngày nay tiếp cận thơ không chỉ qua sách giáo khoa mà còn qua facebook, blog, các câu lạc bộ thơ online. Xu hướng “thơ mạng” những năm gần đây đã khiến diện mạo thi ca sôi động hơn, đồng thời đặt ra thách thức: làm sao phân biệt thơ hay với vô số thơ trung bình trên mạng? Nhà trường một mặt không sử dụng trực tiếp thơ “mạng” vô danh làm ngữ liệu, nhưng mặt khác thầy cô giáo không thể ngăn cản học sinh đọc thơ mạng ngoài giờ học. Do vậy, có thể thấy các đề thi vẫn bám trụ vào những tác giả có tên tuổi, tác phẩm in ấn chính thống. Một vài tác giả trẻ được đưa vào (như Tạ Bá Hương sinh năm 1977, Nguyễn Phan Quế Mai sinh 1973…) cũng đều là hội viên Hội Nhà văn, từng đoạt giải và có tác phẩm in sách báo uy tín, chứ không chọn những “hiện tượng mạng” thuần túy. Điều này thể hiện sự thận trọng cần thiết của ngành giáo dục trong việc bảo đảm chất lượng nội dung.
Tuy nhiên, với chương trình giáo dục 2018, cũng nên đặt ra vấn đề liệu cách tiếp cận thơ trong nhà trường hiện nay nói chung và trong các đề thi tốt nghiệp nói riêng đã theo kịp bước chuyển của thơ đương đại chưa? Khi mà ngoài kia, thơ không còn chỉ viết về “mùa thu, mẹ và em” mà còn nói lên tiếng lòng cá nhân đa dạng, thậm chí nổi loạn, thử nghiệm nhiều lối biểu đạt mới mẻ, thì thơ trong lớp học vẫn chủ yếu quay về những giá trị quen thuộc. Điều đó tạo nên độ vênh thế hệ: nhiều học sinh có thể thấy thơ trong sách vở “xưa” và “xa” cuộc sống của chính mình, trong khi trên mạng họ lại hào hứng với những câu thơ ngắn, “caption” thơ tình cảm, hài hước đang thịnh hành. Ví dụ, trên Facebook không khó bắt gặp những câu thơ “viral” về tình yêu tuổi teen, nỗi cô đơn hiện sinh, hoặc những bài thơ thể nghiệm phi cấu trúc được chia sẻ trong các nhóm yêu thơ. Song, những tiếng thơ “đương đại nhất” ấy chưa có cửa vào chương trình chính thống. Khoảng cách giữa thơ trong nhà trường và thơ đời sống có lẽ vẫn còn, mặc dù mục tiêu lâu dài của giáo dục là không ngừng cập nhật, đưa học sinh đến gần hơn với dòng chảy văn học dân tộc.
Nhìn từ góc độ văn hóa giáo dục, có thể hiểu các nhà trường đang làm nhiệm vụ “định hướng thẩm mỹ” cho học sinh. Việc lựa chọn các tác phẩm thơ trong đề thi cho thấy ngành giáo dục muốn gìn giữ các giá trị nền tảng và hình thành năng lực cảm thụ văn học cơ bản trước. Khi nền tảng đã vững, sau này học sinh bước ra ngoài sẽ có đủ bản lĩnh để tự khám phá những chân trời thơ ca rộng lớn hơn.
5. Qua việc phân tích các đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Ngữ văn với ngữ liệu thơ, chúng ta thấy thơ Việt vẫn giữ một vị thế vững vàng trong chương trình giáo dục, nhất là với cách đánh giá như hiện nay, mỗi năm, nguồn thơ Việt sẽ được tiếp tục đào xới để đưa vào đề. Những tác giả được trích dẫn và chủ đề tác phẩm cho thấy sự tiếp nối truyền thống: thơ ca tiếp tục là kênh chuyển tải hữu hiệu những giá trị tư tưởng, tình cảm cao đẹp tới thế hệ trẻ. Nhà trường nói riêng và ngành giáo dục nói chung sử dụng thơ như một công cụ để giáo dục tâm hồn, từ lòng yêu nước, yêu quê hương đến tình mẫu tử, tình thầy trò và bài học làm người. Hệ thống câu hỏi đọc hiểu được thiết kế bài bản giúp học sinh rèn luyện kỹ năng phân tích và liên hệ, qua đó từng bước thẩm thấu vẻ đẹp ngôn từ và thông điệp nhân sinh của thơ ca.
Đặt trong tương quan với đời sống thơ đương đại, thơ trong các đề thi tốt nghiệp có thể chưa phản ánh hết bức tranh đa dạng và sinh động ngoài xã hội, nhưng điều đó là dễ hiểu và có chủ ý. Giáo dục phổ thông cần chọn lọc những gì tinh túy, phù hợp nhất với lứa tuổi và mục tiêu đào tạo. Dù vậy, cũng không nên có một ranh giới quá khép kín: sự phát triển của thơ mạng xã hội và các khuynh hướng thơ mới đòi hỏi nhà trường dần cởi mở hơn, bắt nhịp với thời đại. Điều này không có nghĩa là đưa ngay “thơ mạng” vô danh vào lớp học, vào đề thi mà là khuyến khích học sinh sáng tạo và cảm thụ đa dạng hơn, không đóng khung vào vài mô-típ quen thuộc với những câu hỏi có thể quy thành các dạng cơ bản.
Thơ ca, suy cho cùng, luôn là tấm gương phản chiếu tâm hồn dân tộc qua mỗi thời kỳ. Việc phân tích thơ trong đề thi Ngữ văn cho thấy bức tranh thu nhỏ của tâm hồn ấy trong nhà trường phổ thông và ngành giáo dục: vừa truyền thống vừa đổi mới thận trọng, vừa bay bổng lãng mạn vừa gắn liền đạo lý. Dưới góc nhìn phê bình và văn hóa, ta có thể khẳng định: vị thế của thơ Việt trong giáo dục hiện nay vẫn rất được coi trọng, nhưng độ mở thẩm mỹ, tư tưởng còn cần nhiều bước tiến để không lạc hậu với hơi thở đương đại. Sự cân bằng giữa gìn giữ và đổi mới là chìa khóa. Khi học sinh được nuôi dưỡng bằng những vần thơ hay và sống động, các em sẽ vừa biết trân quý cội nguồn tinh thần, vừa sẵn sàng tiếp nhận những làn gió mới của thi ca. Đó chính là mục tiêu cao nhất: làm cho thơ ca tiếp tục “đồng hành cùng dân tộc” trong tâm hồn thế hệ trẻ, để mỗi bài thơ học ở trường không chỉ là bài học thuộc lòng, mà còn là hành trang cảm xúc và tư tưởng theo các em vào đời.