Và chính điều đó trở thành một nét riêng, không trộn lẫn cả trong đời và trong thơ anh. Dù viết về đề tài gì, anh cũng tạo được ấn tượng bởi giọng điệu thủ thỉ, chân thành, bình dị và gần gũi. Đấy cũng chính là điều bí mật khiến thơ anh đi vào trái tim của người đọc, đồng hành cùng người đọc theo năm tháng.
|
Thực ra, tôi biết đến Nguyễn Sĩ Đại đầu tiên không phải là những bài thơ chính luận có tính tư tưởng mà chính là những bài thơ tình tuổi học trò non nớt, xao động, đầy lưu luyến và tràn ngập hình ảnh của anh. Những câu thơ như nói hộ nỗi lòng của những cậu học trò lãng mạn, mộng mơ ấy đi cùng với chúng tôi như một hành trang chẳng thể phai mờ: Ta trả cho em mười sáu tuổi/ Những gì xưa hóa chật chội mất rồi/ Ta trả cho em mười sáu tuổi/ Bàn chân đi xê xích cả chân trời.
Ta trả cho em mười sáu tuổi/ Xếp hành trang chỉ kỷ niệm chất đầy/ Làng với phố, bạn xưa trường lớp cũ/ Tuổi thơ ghì ấm áp một vòng tay
(Ta trả cho em mười sáu tuổi)
Nguyễn Sĩ Đại có hàng chục bài thơ tình học trò như thế. Bài nào cũng hay, cũng được các bạn học trò chép vào sổ tay và lưu bút. Có thể nói, với thế hệ 7X như chúng tôi, có mấy nhà thơ viết về tuổi học trò được ưa chuộng đặc biệt, trong đó có Bằng Việt, Hoàng Nhuận Cầm và Nguyễn Sĩ Đại.
Càng về sau, thơ tình Nguyễn Sĩ Đại càng phong phú, nhiều cung bậc. Anh luôn tìm được những cảnh huống gắn với đời thường để bộc lộ tứ thơ và chọn được những hình ảnh gần gũi, cảm động khiến bài thơ của anh trở thành tiếng lòng của những đôi lứa yêu nhau: Anh có em, anh quen có em rồi/ Giờ quạnh vắng ngôi nhà vô nghĩa quá/ Chẳng còn biết vì ai mà nhóm lửa/ Anh một mình thức ngủ cũng cô đơn
Đêm nay trời lại mọc một vầng trăng/ Phố vẫn phố, người đi như nước chảy/ Anh chẳng biết rẽ lối nào cho phải/ Thôi đành về/ Trang sách lại buồn hơn.
(Yêu nhau là thương nhớ thế này sao)
Tình yêu trong bài thơ này không còn là hình ảnh lãng mạn bay bổng thuở học trò, thuở những đôi lứa thơ ngây vừa chạm vào thương nhớ, mà là nghĩa tình sâu nặng, là hình ảnh của gắn bó máu thịt, thủy chung của tình yêu ở tuổi trưởng thành, khi người ta đã chung một gia đình với những niềm vui, nỗi buồn và mộng tưởng. Sự hấp dẫn của thơ tình Nguyễn Sĩ Đại là ở chỗ nó không tô vẽ, thi vị mà nói lên được một cách khéo léo, sinh động những điều bình dị, chân thật khiến ai cũng như thấy nỗi niềm của mình ở trong đó vậy.
Vẫn chất giọng trữ tình đằm thắm, Nguyễn Sĩ Đại viết về mẹ, về chị, về anh, về bạn bè, về quê hương xứ sở. Những câu thơ chắt ra từ cuộc đời, từ chính tâm hồn đầy rung cảm của anh. Nguyễn Sĩ Đại viết như một nhu cầu tự thân, như để trả món nợ ân tình đeo đẳng mãi trong tim. Chính vì thế, mà nhiều câu thơ, bài thơ anh như nói hộ cho nỗi lòng của những người ly hương, rời quê ra sống ở Hà Nội nhưng tấm lòng thì không lúc nào rời xa quê hương xứ sở. Cảnh quê, người quê, những tình yêu vấn vít và sâu đậm nhất đã làm nên một phong vị rất riêng trong thơ anh: Hoa vườn nhà qua chạp trổ vào giêng/ Con chuồn ớt xập xè đỗ cành tre nguệch ngoạc/ Này bụi duối trốn tìm, này góc sân té nước/ Tuổi thơ nào chở tết, áo hoa bay…
(Nhà xưa)
Đặc biệt là những câu thơ viết về mẹ: Ta về với mẹ ta thôi/ Phù hoa xin gửi cho người phù hoa/ Ta về bên mẹ của ta/ Không làm chi nữa, cũng là làm con/ Còn trời còn nước còn non/ Ngày mai rồi sẽ chẳng còn mẹ ta.
(Ta về với mẹ ta thôi)
Mảng thơ về đề tài quê hương trong thơ Nguyễn Sĩ Đại khá đậm nét và được anh chăm chút trong suốt hàng chục năm trời. Chúng ta có thể hình dung về từng vẻ đẹp thân thương của làng quê qua bài thơ Nơi em về, ấy là một chiếc tàu cau/ rơi lặng lẽ xuống vườn sương cỏ ướt; ấy là tím nụ vườn chanh/ hoa xoan tím hoa lục bình cũng tím; rồi hoa mướp; cỏ xanh… Ấy là câu hát mẹ à ơi; ấy là những kỷ niệm về những ngày vất vả mùa trở gió heo may/ mưa ruộng cấy chéo mặt người cắm cúi…
Từ những ân nghĩa với quê hương, dần dần thơ Nguyễn Sĩ Đại càng sâu đằm và mang màu sắc tư tưởng. Điều đáng nói là Nguyễn Sĩ Đại đã đi từ cảm xúc đến tư tưởng tự nhiên như một sự tất yếu. Càng về sau, thơ anh mang phong cách trữ tình – chính luận khá độc đáo.
Bài thơ Cây lúa là một thành công đáng chú ý của anh: Phất cờ trụ với thời gian/ Qua trăm bồi lở vượt ngàn bom rơi/ Lá xanh vút thẳng lên trời/ Bông vàng trĩu xuống cho người cầm tay/ Rễ bền hút chặt đất đai/ Mà nên cổ thụ với đời lúa ơi/ Nợ nần nước mắt mồ hôi/Thủy chung tỏa xuống vai người ấm no.
Nếu như hình ảnh cây tre trong bài Tre Việt Nam của Nguyễn Duy là hình ảnh ẩn dụ về con người Việt Nam thì ở đây, Cây lúa của Nguyễn Sĩ Đại là một ẩn dụ về người nông dân vượt qua bao gian khó mà dâng hiến cho đời. Bài thơ này lại là một minh chứng về sự gắn bó của Nguyễn Sĩ Đại với đề tài nông thôn. Và có lẽ thành công nhất, đáng nói nhất trong mảng thơ này của anh là bài Nông dân. Hình ảnh người nông dân đã từng là một đề tài lớn của văn học từ xa xưa trong ca dao, trong sáng tác của nhiều nhà thơ danh tiếng xưa nay. Nhưng ta ít thấy một bài thơ hoàn chỉnh nào chỉ nói về nông dân với tư cách là đối tượng thẩm mĩ duy nhất của tác phẩm. Cái độc đáo của Nguyễn Sĩ Đại bắt đầu từ điểm này. Phản bác lại quan điểm cho rằng nông dân không tư tưởng, nhiều hủ tục, cản trở bánh xe lăn của lịch sử, Nguyễn Sĩ Đại nhìn sâu vào những cống hiến cho đất nước và vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân vốn dĩ chiếm đến chín phần mười đất nước: Tôi đã thấy nông dân suốt đời làm lụng/ Nuôi cái ăn chung trên mảnh đất khô cằn.
Tôi đã thấy trên chiến trường ngã xuống/ Những nông dân áo lính máu tươi ròng/ Nghèo chữ quá nên trọng người hay chữ/ Bóp bụng nuôi con thành ông trạng ông nghè/ Sáu mươi tuổi mẹ lội bùn cấy hái/ Ông trạng áo dài, ông trạng sống ly quê.
(Nông dân)
Nguyễn Sĩ Đại viết bài thơ này vào năm 1989, nó nhanh chóng được lan tỏa và được nhiều người biết đến, ưa thích. Có thể nói, đây là một tác phẩm trữ tình chính luận sâu sắc. Nông dân xưa nay sống và làm việc như một bổn phận, như một phẩm hạnh, hết sức đáng quý, nhưng không phải ai cũng hiểu, nhất là trong một giai đoạn mà nhiều người vọng ngoại, nhiều người chạy theo những hình ảnh hoa lệ từ phương xa mà coi thường những con người bình dị, những vẻ đẹp văn hóa của quê hương xứ sở mình. Nguyễn Sĩ Đại, vẫn giọng thủ thỉ, bắt đầu từ tình yêu sâu sắc của mình, từ những gắn bó như máu thịt, đề xuất một cách nhìn về người nông dân. Bài thơ, với tất cả tính độc đáo và hồn hậu của nó đã mang tính tư tưởng và có sức sống lâu bền.
Biểu lộ ý thức trách nhiệm và công dân của mình, Nguyễn Sĩ Đại có khá nhiều bài thơ về Đất Nước, về Đảng, về Bác Hồ và về người lính. Mấy chục năm nay đề tài này đã phổ biến và hầu hết các tên tuổi lớn của nền văn học đều đã để lại những tác phẩm tâm huyết được nhiều người yêu mến. Đó là hệ quả của một thời đại mà nhà văn, nhà thơ đồng hành với dân tộc để cất lên tiếng nói công dân. Dù vậy, ở đề tài này Nguyễn Sĩ Đại cũng ghi được ấn tượng riêng. Chẳng hạn như bài thơ Tổ quốc, ông đã chọn một cách tiếp cận riêng. Qua lời tâm sự với những người con, ông nói về Tổ quốc như những gì thuộc về cơ thể, thiêng liêng và máu thịt nhất: Tổ quốc là khi mẹ sinh con/ Có cái mũi dọc dừa, màu da vàng như nắng.
Vẫn bằng lời thủ thỉ ấy, ông gợi lên hình ảnh Tổ quốc qua những biểu hiện cụ thể và đẹp đẽ của nó: Hồn trẻ Việt tự mang hồn Thánh Gióng/ Nết phúc hậu dịu dàng như cô Tấm, Là ngọt ngào tiếng Việt, Là mùa hè sen ngát những ao quê… Và ông nhấn mạnh: Là dòng máu cha ông thao thiết chảy muôn đời/ Thấm vào đất, vào con, vào sắc cờ cháy rực/ Là tất cả những gì yêu dấu nhất/ Không nói được thành lời thì gọi: Tổ quốc ơi!
Cũng như một số nhà thơ chống Mỹ mong muốn làm mới cách viết về đề tài này, Nguyễn Sĩ Đại đã cố gắng viết về Tổ quốc một cách dung dị nhất, vượt qua tính ước lệ, đi tìm những hình ảnh gợi lên sự gắn bó thiêng liêng và máu thịt nhất với mỗi cuộc đời.
Trong một lần tâm sự về thơ, Nguyễn Sĩ Đại cho rằng: thơ được sinh ra để sửa đổi những khiếm khuyết của con người. Anh cũng quan niệm việc làm thơ như một sự giãi bày, chia sẻ những nỗi niềm của nhà thơ trước cuộc đời. Hầu như trong toàn bộ tiến trình thơ của mình, Nguyễn Sĩ Đại luôn nhất quán trong tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, và anh luôn tìm được những hình ảnh lắng sâu làm cho bài thơ thêm gợi cảm.
Đến với thơ Nguyễn Sĩ Đại là đến với một thế giới nghệ thuật mà ở đó tất cả đều thân thương, là đến với nghĩa tình sâu nặng, là đến với những rung động chân thành từ một tâm hồn đôn hậu. Đó có lẽ là yếu tố quan trọng nhất làm nên vẻ đẹp riêng của Nguyễn Sĩ Đại trong dòng chảy thi ca đương đại nước nhà.