BÊN SÔNG
BẾ KIẾN QUỐC
Con sông trôi ở cánh buồm
Gió thành dòng nước chiều hôm tím dần
Bên bờ ngồi duỗi đôi chân
một mình lặng ngắm cõi trần phù du…
Hay là lên núi thanh tu?
Hay là vào giữa mùa thu lánh đời?
Không cười khóc, không buồn vui
Không thương không giận, không vơi không đầy…
Vầng trăng chợt vượt qua mây
Cả dòng sông sáng
ngất ngây đất trời…
LỜI BÌNH:
Trong cuộc đời mỗi con người, có những điều ngẫu nhiên xảy ra như một định mệnh báo trước thật khó giải thích. Bài Bên sông của nhà thơ Bế Kiến Quốc cũng là một sự ngẫu nhiên đặc biệt đó. Còn nhớ, sáng ngày mồng một tết Nhâm ngọ, năm 2002, nhà thơ Bế Kiến Quốc đọc cho tôi nghe bài Bên sông, ông vừa khai bút đêm giao thừa. Một bài thơ ông rất ưng ý, lại là thơ định mệnh của cuộc đời ông. Nó như là linh cảm của nhà thơ và linh ứng cho sự ra đi của ông sau đó không lâu.
Thuyền và biển. Ảnh minh họa. Nguồn Internet |
Với hình ảnh ẩn dụ ở hai câu thơ đầu, tác giả đã vẽ nên một dòng sông vừa thực lại vừa ảo. Một dòng sông có không gian sống nhưng lại rất mơ hồ, nó chỉ có trong sự liên tưởng của nhà thơ và người đọc; một không gian được đan xen bởi cái hữu hình và cái vô hình. Dường như đó là con sông cuộc đời, dòng chảy cuộc đời cứ mải miết không chờ đợi ai. Và để duy trì dòng chảy đó chính là chúng ta những sinh linh nhỏ bé, những thân phận trầm luân trong cõi hữu vi này. Đến hai câu thơ tiếp theo nó là chìa khoá giải mã cho dòng sông mà tác giả muốn nói tới:
Bên bờ ngồi duỗi đôi chân
một mình lặng ngắm cõi trần phù du…
Tác giả đã đi từ cõi hữu vi đến cõi vô vi để nhìn lại thước phim đã qua của kiếp người. Nhìn lại không phải để nuối tiếc, không phải để thỏa mãn mà nhìn lại để tự giải thoát mình. Sự giải thoát của một phật tử đã trải đời và đã ngộ trong tâm thế tâm tịnh. Tôi may mắn có một quãng thời gian được gần gũi với nhà thơ Bế kiến Quốc nhưng chưa bao giờ nghe ông nói chuyện về tôn giáo. Chỉ sau khi ông mất, đọc lại thơ của ông tôi mới nhận ra một điều, Bế Kiến Quốc là người am hiểu về đạo Phật. Đạo lý nhà Phật thấm đẫm trong cách sống cũng như trong thơ của ông. Những câu thơ ám ảnh, mở ra một không khí linh thiêng và từ bi, như muốn hướng người đọc đến ánh sáng của cái thiện, nhắc nhở mọi người về đức hy sinh và luật nhân quả trong cõi luân hồi.
Khổ thơ thứ hai, bắt đầu bằng hai câu hỏi tu từ “Hay là lên núi thanh tu? Hay là vào giữa mùa thu lánh đời?”, đặt ra sau một loạt những suy nghĩ của nhà thơ về cuộc đời, những suy nghĩ không được tác giả diễn bằng lời thơ, và chính hai câu hỏi đó đồng thời cũng là câu trả lời cho một loạt những suy nghĩ. Hai câu hỏi tu từ vừa là câu vào đề, vừa là câu kết luận cho những suy nghĩ không được diễn giải. Khi đã đi gần hết cuộc đời này, nhà thơ nhận ra một điều rằng tất cả mọi sự đều là huyễn giả vô thường. Và, nhà thơ dường như đã rũ bỏ được mọi tham sân si để bước qua cánh cửa của cõi vô thường. Bế Kiến Quốc đang tiệm cận gần hơn chút nữa đến sự giải thoát.
Bức tranh như sáng bừng lên bởi nét chấm phá của hai câu thơ cuối bài. Phải chăng đây là sự trốn tránh. Hoàn toàn không phải vậy. Đó chính là điểm mấu chốt mà bài thơ cần phải có. Đó cũng chính là cái đích mà nhà thơ đã đạt được trong cái vũ trụ sắc sắc không không bao la rộng lớn. Giải thoát!
Đúng ngày rằm tháng 5 của năm đó, nhà thơ Bế Kiến Quốc đã ra đi. Một bài thơ buồn mang nặng những suy tư về cuộc đời, về nhân tình thế thái, về những hỉ nộ ái ố của cõi trần thế, về sự lánh mình vào cõi thiên thu, lại là một bài thơ khai bút và hình như nó cũng là bài thơ cuối cùng của ông. Đêm hôm đó trăng rất tròn, rất sáng. Dường như đó cũng là một định mệnh.
Trần Vũ Long | Báo Văn Nghệ
---------
Bài viết cùng chuyên mục: