Sáng tác

Đồi đá tảng. Truyện ngắn của Vương Đình Khang

Vương Đình Khang
Truyện 08:00 | 27/05/2025
Baovannghe.vn- Cái hang lớn tối như bưng. Tối tới nỗi đưa ngón chân lên không nhìn rõ cái móng. Xung quanh hang không thấy được vật thể gì, đặc một màu đen ngòm.
aa

Ngày 101

Cái hang lớn tối như bưng. Tối tới nỗi đưa ngón chân lên không nhìn rõ cái móng. Xung quanh hang không thấy được vật thể gì, đặc một màu đen ngòm. Đồng ý là mắt tôi Trời sinh ra không nhìn rõ lắm, nhưng khả năng nhìn ra chuyển động trong bóng tối của tôi là thượng thừa. Vậy nhưng, trong hang lớn, không có một xíu ánh sáng nào rọi tới, tôi cũng không cảm nhận được bất cứ thứ gì khác ngoài “nghe”.

Tôi nghe có hơi thở chậm chậm, hơi nín lặng, dường như người đó cố tình kiềm chế luồng hơi mình lại. Tôi nghe tiếng tim đập thình thịch, họ đang sợ, hay đang dằn nỗi sợ đó xuống? Tôi nghe một cái nắm tay nhẹ như không, nhưng nhiệt lượng từ bàn tay đó lớn, chắc là ấm áp. Tôi nghe tiếng mồ hôi lăn từ trán, chảy theo cánh mũi, đi xuống cằm, rỏ vào nền đá lạnh ngắt đánh “bộp” nhỏ xíu. Tôi nghe thấy bóng tối đang nhe hàm răng lởm chởm nanh nhọn, ngoạm lấy mười mấy con người dưới đây, siết cứa vào cổ họ bằng sợi chỉ lằn ranh sống-chết. Tôi nghe thấy tiếng nổ ầm ĩ, rền vang trên đầu. Địa ngục khởi phát từ lâu rồi!

Trước đó, không biết bao lâu

Đồi đá tảng. Truyện ngắn của Vương Đình Khang
Minh họa của Lê Thiết Cương

Huyền thoại có kể chuyện như vầy. Hồi đó, trong Bảy Núi có ngọn Cô Tô linh thiêng, là nơi mấy tiên nữ trên Trời hay bay xuống đây chơi đùa. Mấy cô đó một ngày chán quá, nghĩ ra trò cầm từng cục đá mà tung cao, rớt xuống thành chồng. Mấy cô thi nhau mà thảy, tới khi chồng đá vung lên, như hình một cái tổ trứng gà đầy ắp. Từ đó, có cái đồi đá tảng này. Thời khẩn hoang, lưu dân kéo tới tìm nơi sinh sống. Đồi đá bốn bề khô cằn, không một bụm nước. Dân khát quá, liền than khóc, cầu khẩn thần linh. Mấy cô tiên động lòng, nửa đêm cho một dòng suối chảy từ trên đỉnh trời rót xuống. Dòng suối tưới mát ngọn đồi đá tảng, cây cối liền hoá xanh um, rêu biếc phủ lên đá, tươi màu một vùng trời Bảy Núi đang nóng đổ lửa. Người xưa đặt cho đồi đá tảng cái tên “Túp Dụp”, tiếng Khmer nghĩa là “nước đêm”.

Đất lành thì chim đậu. Người ta đổ về đây, sống vây quanh đồi đá như một chuyện hiển nhiên. Trong đồi có những hang hốc, tạo tác từ kẽ hở của những tảng đá tròn lẳn. Con người vậy mà đã tìm được cách đào xuống, chui vô mà trú thân. Họ sống với núi đồi một cách bình lặng, cho tới khi chiến tranh kéo về.

“Chiến tranh”. Cái khái niệm này chỉ con người mới có, loài vật tuyệt nhiên không hề có chữ này. Con vật cùng lắm là tranh giành lãnh địa, chiếm khu vực sinh sống, giành quyền làm chủ. Con vật không diệt chủng, xoá sổ nền văn minh, hay mượn danh nghĩa gì để ra tay hết. Con vật là thuận theo tự nhiên, Trời đã ban cho bản năng như vậy, không trái đạo trời. Chỉ có con người mới dám “nghịch thiêng” mà thôi.

Con vật cũng không huỷ diệt thiên nhiên khi đánh nhau, khác với loài người, có thể làm nổ tan nát cả một vùng rộng lớn để “đào xới” cho ra kẻ địch. Đó là tôi đang nói tới việc đồi đá tảng đang bị cho nổ đùng đùng ngoài kia.

Ngày 102

Tôi kẹt trong hang đã một ngày một đêm cùng với mười mấy người kia, bắt đầu cảm thấy đói khát chịu hết xiết. Cảm giác ngứa miệng ghê gớm, muốn cắn phá cái gì đó. Cổ họng tôi khát khô, bỏng rát. Tôi lò dò nghe ngóng, cuối cùng phát hiện ra một cái rễ cây đang nhễu tỏng tỏng vài giọt nhỏ xíu trong hốc trên cao. Mừng quýnh, tôi vất vả leo lên, há miệng cho dòng nước chảy vào miệng. Ít quá, không thấm vào đâu hết! Nhưng có nước là tốt rồi, tôi cố gắng uống càng nhiều càng tốt, hứng chí phát ra hai tiếng “Chít! Chít!”. Dở quá, kêu làm chi để bị phát hiện. Một giọng con gái ới lên, thều thào mỏng dính:

- Em nghe có tiếng chuột! Ở trên đầu! Coi bộ nó phát hiện cái gì đó?

Con người hễ mà phát hiện ra nguồn sống, thế nào cũng giành với con vật cho mà coi! Y như rằng, cô gái mò tới đúng chỗ tôi đang uống, sờ trúng ngay chân cái rễ cây nhễu nước. Tôi may mắn, đã chui ngay vào kẹt đá trước khi tay cô gái đụng trúng.

- Nước! Có nước anh chị ơi!

Bầy người lao nhao hết lên, nhưng đó chỉ là những tiếng thì thầm, rù rì. Chắc là họ sợ bên trên định vị được cái hang này. Theo tôi nhẩm tính, bây giờ là ban ngày, là giờ người phe bên kia đang vần vũ trên trời, rà soát khắp núi. Đám người trong hang mừng nhưng không rối loạn. Họ hè nhau đỡ một ông già đứng thẳng lên, đưa đầu về cái rễ cây. Cái chân ông ta đã dập nát vì bị đá đè. Giọng cô gái khi nãy lại rì rầm:

- Bác Chín há miệng ra cho nước chảy vô. Khi nào đỡ khát thì bóp tay con!

Tôi nằm yên chờ từng con người mót từng giọt nước kiểu đó. Uống chi mà khổ sở. Tôi đếm tổng cộng có mười một người, trai gái, già trẻ có đủ. Ai yếu quá thì có người nâng lên, ai còn khoẻ mạnh thì uống sau, ngửa cổ mà chờ từng giọt rơi xuống lưỡi. Giờ thì nước là quý nhứt, đúng vậy! Việc uống nước đã mất hết nửa ngày. Khi nghe tiếng chim vịt kêu quác quác thay cho tiếng trực thăng phành phạch dội từ trên đầu xuống, tôi biết đã xế chiều rồi. Phe bên kia đã rút quân. Cô gái trẻ phát hiện ra nước là người uống sau cùng. Xui cho cô ta, nước mót khi đó bỗng nhiên cạn kiệt, ngưng chảy. Khi ai đó hỏi: “Lài, uống được không con?” thì cô trả lời “Dạ rồi!” Nói dối, nước còn chảy nữa đâu mà ngửa cổ ở đó?

Nửa đêm, đám người đó bắt đầu chầm chậm, mày mò đào lối thoát. Họ rà tay tìm những tảng đá nhỏ, có thể lay động được, từ từ kiếm cách dời đi. Tảng nào khi lay mà làm rung động tảng bên trên, họ ngưng liền, do sợ trần hang sập xuống. Tôi cũng bắt đầu tìm cách thoát ra, đúng là có khe hở, nhưng nó nhỏ lắm, chỉ có con chuột như tôi mới lách mình vào nổi.

Lượng không khí trong hang tối hiện giờ đã cạn dần, không khí đi vào rất ít. Ban ngày, đá hút nóng. Bây giờ thì phả ra hừng hực, hanh hao khó chịu vô cùng. Tôi muốn phát điên, từng hơi thở là cực kì khó nhọc. Cái đám người đó đang tranh không khí với tôi, nhưng họ lại nhường không khí cho đồng loại. Họ thở rất ngắn, cử động chậm rì, cố gắng không tiêu hao nhiều sức lực. Tôi mặc kệ, tôi sẽ thoát ra khỏi đây liền bây giờ, mặc kệ con người chết mòn trong đó.

Tôi men theo khe đá, ngoằn ngoèo, vòng vèo, lách về hướng bầu trời. Có kẽ gió man mác. Vậy là tôi đã đúng hướng! Có không khí! Sau lưng tôi, cô gái trẻ tên Lài cũng giở từng cục đá nhỏ lách cách. Trời ơi, ngưng tay lại, coi chừng sập! Chỗ đó đang chịu lực mà! Đúng rồi, qua tảng kế bên đi! Con người không có chút bản năng hoang dã gì hết, vô tri hết sức nói! Đã yếu ớt như vậy mà chui vào đây làm cái gì để cho bị đánh sập, kẹt hết trong này chi không biết? Đang tức mình, tôi không để ý là mình đã lần ra gần tới miệng hang. Còn cách chừng hai ba mét nữa thôi. Tôi mừng quýnh, khi đó bất ngờ lại vang lên tiếng nói từ bên ngoài thều thào.

- Út Lài! Chú Hai! Chú Ba! Có ở dưới không?

Con người! Họ đi tìm nhóm người bị kẹt! Trời tối nên họ mới dám chui ra mà tìm đồng đội chớ gì? Hướng phát ra âm thanh là lối thoát! Tôi phóng nhanh theo đường đó, đầu chạm vào một cục đá cứng đánh “cốp”. Bít cửa rồi! Kẽ hở đã dừng ở đó! Tôi đau nổ đom đóm mắt, tức mình chửi trời chửi đất hai tiếng “Chít! Chít!” Tiếng nói bên trên vọng lại:

- Chỗ này! Em nghe có tiếng động! Anh em đang ở dưới này đúng không?

Đúng chỗ rồi đó cậu trai! Nhưng cô Lài tút dưới kia, sâu lắm, làm sao nghe anh nói được?

- Phải tiếng anh em không không Sáu Lượm?

- Em nghe hình như tiếng chuột? Không chắc nữa!

- Không chắc cũng phải thử! Chuột nó ở dưới đó có nghĩa là có khoảng trống! Anh em có thể bị kẹt trong đó!

Đám người bên trên xì xầm không dứt. Bàn tới bàn lui, mọi người quyết định toả đi tìm tiếp, còn cậu trai tên Sáu Lượm khi nãy nhận nhiệm vụ đào sâu cái lỗ xuống chỗ tôi đụng đầu khi nãy, gọi là “không bỏ sót cơ hội”. Con người thích làm chuyện vô ích quá ta? Đào sao nổi mấy tảng đá lớn như con bò đó? Anh mà đào thủng tới dưới thì cô gái tên Lài đó cũng chết vì thiếu không khí lâu rồi! Nhưng mà cố gắng đào đi, biết đâu được! Ít ra thì con chuột nhỏ xíu như tôi có thể lách ra được!

Ngày 103

Ban ngày, phe bên kia lại quần thảo trên đầu, rảnh rang thì dội vài trái bom nổ đùng đùng. Đá trắng Bảy Núi cứng như sắt, rung chuyển, sứt mẻ nhưng không bể tan. Chẳng trách con người gọi là “thành đồng vách sắt”. Cũng nhờ vậy mà cái hang chưa sập, chúng tôi còn sống. Mỗi đợt trần hang rung lên kịch liệt, con người bên dưới lại xôn xao. Họ lo lắng, nhưng không có vẻ sợ chết như tôi. Mắt họ vẫn ánh lên trong bóng tối. Hai mươi mốt cái đồng tử vẫn trừng trừng nhìn lên đỉnh đầu, như hai mươi mốt đốm sáng. À, mất một đốm, vì hòn đá tai mèo nọ đã găm vào mắt ông trung niên ở đợt dội bom ban sáng. Kì lạ? Không sợ chết? Có lẽ sợ thì họ đã không chui xuống đây, bám trụ cái đồi đá tảng này trong thời gian lâu như vậy! Có lẽ sợ thì ngay từ một trăm ngày trước, sau loạt bom đầu tiên, họ đã tháo chạy cả rồi. Họ đã chấp nhận chuyện bị dội bom trên đầu như vậy một trăm ngày ròng rã. Vì cái gì không hiểu được. Chắc loài chuột chúng tôi sẽ không bao giờ hiểu nổi tường tận cách sống của loài người.

Họ trú trong đồi đá tảng, đánh nhau với địch liên miên, mãi cho đến lúc bị dội bom kẹt trong hang tới bây giờ là ba ngày rồi. Ba ngày trong bóng tối, ngay cả tôi còn khó chịu, huống hồ con người yếu đuối. Tôi đói tới phát điên lên. Cái răng của tôi lại mọc dài, bây giờ phải kiếm cái gì nhấm nháp. Tôi thấy ông già dập nát chân đó máu đã thấm qua lớp vải bó tạm, nằm rên hừ hừ. Chỗ vết thương đó đối với loài chuột như tôi thì đó là một bữa tiệc. Có lẽ tôi sẽ lén chui ra, gặm vào ngón chân cái của ông. Nó là đống thịt bầy nhầy rồi, chắc ông sẽ không biết đau nữa?

Tôi lò dò tiến lại gần, rất chậm, không phát ra tiếng động. Nhưng xui rồi, một ông anh đã phát hiện. Anh ta điên lên, đập tay rất mạnh xuống nền đá: “Tránh ra! Đồ súc vật!”.

- Gì vậy?

- Chuột nó gặm chân bác Chín!

- Thôi tha nó đi! - Cô Lài nói giúp tôi - không có nó thì mình chết khát rồi!

Anh trai đó hậm hực, hình như anh ta tức tới phát khóc. Giọng rưng rưng:

- Không ai được đụng vô đồng đội em!

Mười một con người đó không hẹn nhau mà cùng sụt sùi nước mắt, ngay sau câu nói. Tại sao bị kẹt ở đây, bị đói khát suốt ba ngày, họ không khóc? Bây giờ chỉ vì một ông già sắp chết mà xúc động dữ vậy? Thứ tình cảm này chúng tôi không có, nên tôi không hiểu. Có thứ quý hơn cả mạng sống hay sao?

Ngày 105

Khuya hôm đó, bằng tiếng “cạch” rất nhỏ, anh trai tên Sáu Lượm đã thành công đục thủng cục đá lớn chắn bên trên lối thoát. Trời ơi, tôi mừng quá, lập tức phi lên như bay. Tôi vọt ra bên ngoài, hít cho đầy vòm phổi không khí quý giá, thứ mà mấy ngày nay còn quý hơn thịt cá! Anh ta thấy tôi vọt qua, hơi bất ngờ nhưng cũng mặc kệ. Khi đã lên trên cao, tôi ngó xuống chỗ đào nơi mình thoát thân.

Ông này quả thật kiên trì ghê gớm. Suốt ba bốn đêm liền, quày quả đục bằng dùi cho tới gần sáng. Cái miệng lỗ rộng mấy tấc, hẹp dần hình cái phễu, đã thủng suốt vào bên trong, đúng ngay đường hầm hẹp đủ thân con chuột như tôi tọt qua. Kế bên có miếng vải xam xám, anh ta đã cố định để đánh dấu chỗ đục, đồng thời nguỵ trang cho máy bay không nhìn thấy, đúng là thông minh. Sáu Lượm mừng phát khóc, đưa miệng sát cái lỗ:

- Út Lài! Em có trong đó không?

Út Lài là gì của anh ta mà quan tâm trước nhứt vậy? Không khí mát lạnh từ ngoài đồi đá ùa vào trong lòng hang. Tôi biết chắc Út Lài có nghe phong thanh, liền đáp trả. Cậu Sáu Lượm đó vui mừng khôn xiết, nhưng không dám đánh động, dùng hai tay nắm tóc mình mà quay ngoắc ra sau, co rúm người khóc nấc lên. Lại khóc! Đồng đội của cậu ta lập tức tụ lại ngay miệng hang, liên tục đối thoại xuống bên dưới. Ai cũng mừng ra mặt, chỉ có cậu Sáu Lượm đó tới giờ vẫn nức nở không thôi. Anh ta mừng như chết đi sống lại. Anh ta có bị kẹt đâu mà khóc? Người bên dưới mới đang đối mặt với cái chết đây kìa?

Ngày 107

Tôi tìm khắp đồi đá tảng, không tìm ra được chút thức ăn nào ngon lành nữa. Ngày nào phe kia cũng oanh tạc, các con thú lớn nhỏ đã trốn đi hết, không gì sống nổi. Cây cối tan hoang, trốc gốc, trái cây thối nát. Có lẽ tôi là con chuột duy nhứt còn sót lại, do đã kẹt trong lòng hang mấy ngày, đã quen với bom nổ. Tôi đang tính tới chuyện bò đi chỗ khác kiếm ăn, chia tay ngọn đồi quê nhà. Nhưng tối hôm đó, Sáu Lượm và đồng đội đã mang lên đồi mấy gói đồ ăn rất lớn.

Tôi nhìn miệng hang nhỏ xíu mấy tấc, giật bắn cả mình. Con người thông minh thật. Tối hôm qua, bên trên đã nghĩ ra cách nối một máng xối dài bằng thân cây tre. Họ vạt nửa trên cây tre, tạo cái rãnh hình bán nguyệt, luồn xuống dưới. Dĩ nhiên đường hầm không đi thẳng, cây tre khéo léo luồn lách vào tuốt bên trong. Thần kì thiệt! Từ đầu cái máng xối đó, Sáu Lượm đang thả lăn xuống mấy cục cơm nắm gói trong lá chuối. Rồi anh ta rót nước từ ống tre, chầm chậm, từ từ cho bên dưới có thời gian hứng. Anh ta tiếp tế đồng đội bằng cách đó vô cùng thuận lợi. Nhìn anh ta vui trong cái khổ thấy mà thương. Xong rồi, Sáu Lượm nán lại nói chuyện rất lâu. Hình như anh ta đang động viên Út Lài cùng anh em bên dưới. Anh ta hứa sẽ tiếp tục đào, nói mọi người cố gắng lên, sẽ thoát ra được. Suốt tới khi bình minh lên cao, Sáu Lượm và đồng đội mới rời đi.

Tôi nhìn mớ cơm nắm mà thèm. Cuối cùng, tôi quyết định chui trở xuống hang tối. Có lẽ cô Út Lài đó là người hiền lành, sẽ cho tôi ăn. Dù sao tôi cũng là ân nhân của họ mà!

Khi tôi xuống tới lòng hang, dù đã thông với đường hầm nhưng bên trong vẫn nóng như lò thiêu, không khí vẫn ngột ngạt. Cơn gió hiu hiu thổi từ cái lỗ bề ngang một tấc đó là không đủ. Ánh sáng chỉ leo lét rọi được một vầng nhỏ xíu, còn lại vẫn tối hù. Tuy nhiên, khi này, nhân dạng mấy người trong đó đã mờ tỏ hiện ra. Cô Út Lài đang ngồi bó gối, úp mặt xuống đất. Bộ bà ba đen đã rách bươm, cái khăn rằn quấn trên bụng cô đã te tua nhàu nát. Mấy người còn lại cũng tèm lem, dơ bẩn còn hơn tôi. Họ người nằm, người quỳ, kẻ ngồi, vô cùng mệt mỏi và ảm đạm. Người kia hòn đá vẫn găm vào mắt, đã lấy khăn quấn chặt, ruồi không biết từ đâu chui vào, bu vào vết thương vo ve. Ông ta chắc đang sốt, dựa vào vách đá thở dốc. Bên cạnh, một cô gái khác ngồi phe phẩy tay đuổi ruồi, nước mắt lưng tròng. Mặt cô ta đã bị đá cắt một vết sẹo lớn, kéo từ đuôi mắt tới cằm, máu khô đóng mài. Anh lính trẻ định đập chết tôi hôm trước thì đang khóc rức. Anh ta ôm người nằm đó mà khóc. Ông bác Chín có cái chân dập nát đó chết rồi. Chết rồi sao?

Tôi len lỏi qua đám người, không ai thèm nhìn tôi nữa. Họ đang chìm ngập trong bi thương, không còn để ý gì khác. Tôi mò tới cục cơm nắm để kế bên cô Út Lài. Cô ta cũng đang cúi mặt, nước mắt rỏ xuống nền đá tong tỏng. Trong bóng tối, nước mắt có sức nặng lớn thật. Nó rơi xuống, va vào mặt đá, gây chao đảo không thua gì bom đạn oanh tạc lên đồi đá. Út Lài buồn, tôi có cảm tình với cô, nên tôi cũng thấy buồn.

Út Lài phát hiện ra tôi. Cô nhìn tôi, không đuổi đi, cũng không nói gì hết. Tôi thản nhiên gặm nắm cơm trắng muối mè ngon lành. Cô ta nhìn tôi, không biết có cảm thương không, khi cùng chịu cảnh bom rơi đạn lạc suốt mấy ngày. Cô ta để tôi ăn gần hết nắm cơm, lại bò trở ra, chui tọt vào đường hầm, phóng ra ngoài đồi mất hút. Tôi đi, còn cô ta kẹt lại. Lài nhìn tôi như nhìn về phía tự do. Tự do, trong lòng hang dĩ nhiên là mất tự do. Còn bên ngoài, có không? Phía ngoài đồi đá tảng, khi ấy, phía bên kia lại bắt đầu một trận oanh tạc long trời lở đất. Máy bay vần vũ, xé nát bầu trời Bảy Núi đang xanh trong.

Ngày 111

Người phe bên kia mấy nay chắc sốt ruột lắm. Máy bay quần thảo nhiều hơn, bom rơi liên tục, tiếng nổ nối đuôi nhau, cày nát khắp vùng. Vậy mà đồi đá tảng vẫn vững như thành đồng vách sắt. Không biết họ đã tốn bao nhiêu tiền để ném bao nhiêu đó bom? Nếu một trái bom là một nồi cơm, có lẽ đã dùng cứu sống được nạn đói ở đâu đó rồi.

Họ sốt ruột cũng phải. Căn cứ trong đây bị dập tan nát, vậy mà tiếng súng phản công vẫn không thôi. Sáu Lượm cùng với đồng đội ban ngày thì chiến đấu, ban đêm thì tiếp tế cho nhóm Út Lài dưới hang. Sức lực đâu mà như vô tận vậy? Tôi không rõ phe Sáu Lượm có bao nhiêu người. Họ thoắt ẩn thoắt hiện, như những bóng ma vô hình, khiến phe kia không biết đường mà phản kháng. Họ hoà mình vào núi đá rồi chăng? Khi thì họ bắn một tràng bên này, cài mìn, quăng lựu đạn kiến địch tổn thất một mảng lớn. Địch xúm lại, đổ ra bao nhiêu là bom xăng, khí độc, bom mìn, đồi cháy phừng phừng. Nhóm kháng chiến lại biến mất. Tiếng nổ bất ngờ vang lên bên kia, kẻ địch hoảng hồn chống đỡ. Thế trận vỡ ra rồi nhập lại liên hồi. Đánh bộ không hiệu quả, địch lại chuyển sang thả bom. Đồi đá tảng rung chuyển. Cả ụ trứng gà đó là của mấy cô tiên Bảy Núi tạo nên, mấy người làm sao đánh tan nổi? Dường như họ không chỉ đánh với nhóm người Sáu Lượm. Họ đang chống lại cả đất trời xứ này. Tối, tôi thấy những dân thường, có cả người Việt lẫn Khmer đang lén lút chuyền nhu yếu phẩm cho nhau. Họ tiếp tế cho quân kháng chiến. Sự đồng lòng đó, tôi tin rằng loài chuột tôi không có. Chỉ con người mới có!

Tôi chui vào doanh trại phe kia kiếm ăn, thấy một ông da trắng cao lớn gào thét trong cơn thịnh nộ. Giọng ông không khác chi mấy trái bom ngoài núi. Ông ta đang mất bình tĩnh vì đã tốn quá nhiều tiền của, binh lực cho ngọn đồi nhỏ xíu này. Tại sao nó chưa tan tành? Tại sao nó không sụp đổ? Thời gian đặt ra đang hết dần, phải dồn sức đánh tan tác chúng nó một trận cuối cùng chớ? Bao nhiêu khí tài, bung ra hết cho tao!

Tôi tiếc mình là con chuột, không nói được. Nếu không, tôi đã chạy về báo cho Sáu Lượm, Út Lài. Tôi không muốn người Bảy Núi thua trận đánh này. Tôi không muốn những người lạ hoắc đang tàn phá đồi đá tảng chiến thắng. Họ đã biết sắp xảy ra trận càn quy mô lớn khủng khiếp sắp trút xuống đầu họ chưa?

Ngày 120

Người trong hang còn sống sáu người. Năm người đã nằm đó lặng im mãi mãi. Sáu người còn lại sống mà không khác gì chết. Họ không cử động nhiều nữa, chỉ thoi thóp. Bóng tối bóp nghẹn họ quá lâu, khiến mấy con mắt còn đó mà như đui mù. Những cái nhìn của họ như bâng quơ vào màn đêm, không tập trung vào cái gì được. Chỉ có điều lạ là, những đôi mắt đó vẫn anh ánh ánh sáng. Ánh sáng ở đâu rọi vào mà lại sáng trưng như vậy?

Ông chú bị đá găm vào mắt đã chết rồi. Cô gái ngồi đuổi ruồi cho ông cũng đã chết rồi, nằm cạnh bên. Cái sẹo trên mặt cô ta cũng còn đó, kéo dài từ đuôi mắt tới cằm. Nó không mờ đi, nó rõ lên mồn một. Một vết sẹo sâu và dài đằng đẵng. Lúc này, tôi không thấy cô ta xấu xí nữa. Cô ta đẹp một cách bình thản trong cái chết.

Cậu trai ôm chân ông bác Chín khóc hôm trước, nay cũng đã chết. Cậu giữ nguyên tư thế đó, gục đầu ôm chân người đi trước, dù cái chân đó dập nát, đang phân huỷ. Cái chết khom lưng, hao mòn, nhưng tôi lại cảm thấy cậu ngay thẳng vô cùng. Tôi mừng rỡ khi thấy Út Lài còn sống. Cô còn sống, dù rất yếu. Út Lài thì thào, giọng nói của cô như một dòng nước róc rách chảy, tưới vô héo hon của cái hang địa ngục.

“Đỡ thằng Lộc nằm xuống phụ em. Thằng nhỏ… đi rồi.”

Nước mắt khi này đã cạn khô. Những người còn lại không ai khóc nữa. Họ cùng nhau xếp đồng đội nằm ngay ngắn. Mùi tử thi bốc lên nồng nặc, trộn trong không khí vốn đã quá ngột ngạt, trở thành một quầng khí độc.

Sáu người nằm đó, được đồng đội lấy mấy hòn đá nhỏ và đất vụn phủ lên. Đất đá không đủ, chân tay thò ra ngoài, nhìn rất thương. Út Lài tần ngần. Cô nắm lấy tay từng thi thể. Có tay đã cứng ngắc, có tay lạnh căm căm. Tay thằng Lộc hình như còn chút hơi nóng của tuổi trẻ, nhưng mỏng manh, xa xăm lắm. Rồi nó cũng sẽ lạnh. Út Lài sửa cho tay sáu thi thể nắm lấy nhau, nắm chặt như cách mà khi sống họ đã làm. Họ đã chết trong hang tối, lần lượt từng người, nhưng không hề giành giật đồ ăn, nước uống, thậm chí cả không khí dù chỉ một lần. Tại sao họ có thể làm như vậy được?

Ngày 126

Cái miệng hang Sáu Lượm đào thông vào trong đã bị một trái bom rớt trúng. Không hề nản chí, anh ta đào lại từ đầu. Hai ngày trôi qua, anh ta một lần nữa tìm được cách luồng cây tre xuống dưới thành công. Anh ta vẫn khóc như mưa, vừa khóc vừa đổ nước xuống dưới. Tôi không biết nước suối hay nước mắt chảy vào hang nhiều hơn nữa? Sáu Lượm nói một câu vô nghĩa. Nó không có nghĩa lí gì vào lúc này. Không biết Út Lài cảm thấy như thế nào, dưới hang sâu kia?

- Út ơi, thoát ra ngoài rồi, mình đám cưới nghen!

Tôi chưa thấy chú rể nào cầu hôn mà nức nở tới nghẹn ngào như vậy? Những chữ anh ta thốt ra là những lời bể nát. Út Lài im lặng rất lâu. Tôi vừa chui xuống để gặm cơm nắm trong hang, mấy nay người dưới hang đã chẳng thiết tha gì tới ăn uống nữa. Họ hết thấy đói rồi.

Út Lài ngó ô sáng mờ mờ, men theo đường hầm hắt xuống. Chỗ đó là ánh trăng sao? Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ… Út Lài hát khe khẽ, cái giọng đã khàn đi, không còn giống giọng con gái nữa. Bên trên, Sáu Lượm nghe bài ca, chắc là đã chết trân. Chắc cô đang nhớ lại một đêm rằm trung thu nào đó, khi còn tự do bên ngoài. Khi đó Út Lài có đi rước đèn không? Đèn của cô hình gì? Ông sao hay là con cá? Xóm của cô có đông con nít không? Có múa lân không? Có bánh trái ê hề, ăn no nê không? Cô đã nắm tay đứa nào mà nhảy múa? Đứa đó bây giờ ở đâu? Còn sống hay đã chết? Sống hay chết, sau những trận mưa bom cày nát Bảy Núi hơn một trăm ngày qua? Đêm trung thu đó đã bay biến vào một miên trường xa biệt mù khơi. Ngoài kia, rốt cuộc có còn thứ gọi là tự do hay không?

- Em thương anh Sáu.

Út Lài nói rõ từng chữ, rất chậm. Tôi giật bắn mình trước động tác kế tiếp của cô. Tôi nhảy phốc, vọt qua cái lỗ, chui tọt theo đường hầm hướng lên trên ngay tức thì. Út Lài khi đó đã chụp lấy một tảng đá lớn, đập thẳng vào miệng hang bên dưới. Cú đập bằng tất cả sức tàn. Một cơn sóng nhỏ xô đi dưới lòng đồi đá tảng. Đá đất đổ rào rào, bịt kín miệng hang, đè gãy cây tre tiếp tế. Lòng hang có sập không? Út Lài và mọi người có sao không? Tại sao cô làm vậy?

Tôi vọt qua người Sáu Lượm. Khi nghe tiếp đá đổ, anh ta không kiềm được mà gào lên một tràng thất thanh. Tiếng hét như con cọp trên núi bị trúng thương, đau đớn xé lòng. Anh ta cào mười đầu ngón tay xuống miệng hang lởm chởm, tới bật máu. Những đồng đội tức tốc tràn tới, lôi xệch anh ta đi, tay bịt miệng để không bị phát giác. Sáu Lượm giằng lại, bơi trong vòng tay đồng đội tưởng như bơi ngược một con thác. Anh ta níu người thương dưới kia bằng một tiếng nấc sau chót:

- Anh ơi! Anh ơi! Út Lài nói em tập trung chiến đấu, đừng lo cho người ở dưới nữa! Út Lài tự lấp miệng hang rồi anh ơi!

Cái tay người động đội bất giác lơi ra. Tiếng khóc rú của Sáu Lượm không gì cản ngăn, lại oà lên giữa đêm đen trên đồi đá tảng.

Ngày 128

Con chim lửa kinh hoàng nhất chao liệng trên bầu trời Bảy Núi một trăm hai mươi tám ngày nay chính là nó. Con chim to lớn, sải cánh dài sọc, đen trùi trũi. Nó rải xuống Bảy Núi những trận nổ long trời lở đất, chưa bao giờ dứt. Mỗi ngày, vạn vật trên xứ này, nghe tiếng nó đập cánh là co mình sợ hãi. Tôi sợ nó nhứt thảy! Nhưng nhóm người Sáu Lượm thì không. Họ cố gắng bắn hạ nó. Tầng mây nó bay là quá cao, quá xa. Lớp da thép của nó quá dày. Thứ lửa nó khạc ra khiến đồi đá rung lên từng hồi, vô cùng ghê gớm. Sau mấy chục tiếng chiến đấu liên tục không ngừng lại, không biết cơ thể của người Bảy Núi có trụ lại được không? Chỉ thấy đoàn quân đông như kiến, xe tăng, pháo xạ kéo tới rần rần, đều bị đánh bật ra. Phe kia rõ ràng không làm chủ được địa hình địa vật, hoàn toàn không xác định được phương hướng ẩn trú của những bóng ma Bảy Núi.

Sáu Lượm và đồng đội có hiện hữu hay không? Hay họ đã hoá thành mấy cục đá kia, mấy dốc đồi kia? Họ ở dưới hố bom kia? Hay là họ nằm sâu trong lòng đồi đá tảng, như Út Lài? Không biết. Tôi không còn thấy họ. Tôi chỉ thấy chớp sáng ánh lửa, nghe râm ran tiếng cao xạ, tiếng súng văng vẳng. Tới bây giờ, bao nhiêu người kháng chiến tôi cũng không biết. Những người tôi biết đã hi sinh gần hết rồi. Chắc phe bên kia cũng không biết. Bom đạn đó họ ném vào đồi đá mà như ném vào hư vô. Nó nổ như pháo bông rồi tắt ngúm. Đẹp nhưng vô dụng. Đồi Túp Dụp sững trân. Tường đồng vách sắt.

“B52 rớt rồi!!!!”

Một tiếng hét vang lên ở đâu đó trong đồi. Con chim lửa khổng lồ bốc cháy một cánh, đang hấp hối rơi xuống. Nó kéo một vệt khói đen dài, xé ngang nền trời xanh trong. Cái nắng chang chang chiếu rọi lên lớp vảy thép của nó. Cơn lóng lánh đi qua nhanh, tiếng nổ bùng lên ở một rẻo đất cuối chân trời. Nó đâm đầu xuống đất mà chết tức tưởi.

Khói phải nói, cả ngọn đồi bùng lên tiếng hò hét. Rồi từ rừng, từ hồ, từ từng gốc cây ngọn cỏ. Cả đất trời Bảy Núi như đồng thanh hét lên tràng ăn mừng. Núi sông vang dội! Phe bên kia chết đứng, nhìn con quái vật băng xuống, như nhìn sự sụp đổ của chính mình. Thứ vũ khí ghê gớm đó đã bị huỷ hoàn toàn. Họ không thể ngờ, cái xứ nhỏ xíu, không thể có nổi một binh đoàn quân nhân chuyên nghiệp này đã bắn rơi con quái vật sắt của họ. Trận chiến tan vỡ từ trong tâm lí trước, rồi đến thế trận. Một trăm hai mươi tám ngày, đồi đá tảng Túp Dụp chưa bao giờ sụp đổ. Thứ sụp đổ là niềm tin về sức mạnh tối cường của những kẻ dám cả gan tới đánh phá xứ này.

Đoàn hùng binh, hay đúng hơn bây giờ là tàn binh, rút đi. Bây giờ họ sẽ phải gặm nhấm sự bại trận. Còn bên chiến thắng, có lẽ những người như Sáu Lượm phải gặm nhấm nỗi đau mà bom đạn để lại. Dù thắng hay bại thì cũng phải đau đớn, đúng chăng?

Và ngày sau

Sáu Lượm kéo anh em lên nơi đó, chỗ miệng hang, bắt đầu căng sức ra mà đào. Bây giờ không e sợ cái gì nữa, họ dùng leng, cuốc, đục lớn, bắt đầu khoan thủng cái lỗ nhỏ. Họ nuôi hi vọng rằng nhóm đồng đội bên dưới còn sống, bây giờ đưa họ ra, cùng nhau ăn mừng chiến thắng, cùng ôm chầm lấy nhau khóc oà. Sáu Lượm sẽ đỡ Út Lài ra ngoài, nắm lấy tay cô rồi hát vang bài hát Bóng trăng trắng ngà… Anh sẽ không thì thầm nữa, sẽ hát hò tới khản cổ thì thôi. Út Lài ơi! Đất trời này là của mình. Mình sẽ ca vang mà không ai cấm cản nữa.

Miệng hang mở rộng. Ánh sáng chan hoà của bầu trời ùa vào, đêm đen đặc quánh trong lòng hang bị đuổi phăng đi. Bên trong giờ đây, mình còn lại gì? Út Lài, cô đang nằm ở vị trí đầu tiên bên trái. Kế bên, cô nắm tay cô gái có vết sẹo trên mặt. Cô gái có vết sẹo nắm tay thằng Lộc. Thằng Lộc nắm tay Bác Chín. Bác Chín nắm tay ông Ba… Mười một người nằm ngửa, ngẩng mặt lên trần hang, tay níu lấy bàn tay. Họ gắn liền thành một thể thống nhất. Nhóm người có mười một người mà bây giờ nhìn như hoà vào nhau, thành một người duy nhất. Họ nằm đó, ngay hàng thẳng lối, chân duỗi thẳng, tay dang ra, hướng mặt lên trời. Ánh nhìn sau làn mi của họ xuyên qua trần hang, qua đá núi, ngó thẳng vào nền trời xanh có nhiều mây trắng bay. Có con chim nhỏ liệng ngang bầu trời khi nãy còn ngổn ngang khói lửa.

Tôi, con chuột nhỏ xíu, sinh ra ở tại mảnh đất kì cùng đất nước, đã trải qua địa ngục trần gian và ngắm nhìn người Bảy Núi tồn tại. Bây giờ tôi sẽ lại quẩn quanh ở đây, ngọn đồi đá tảng, cánh rừng, hồ nước, gốc cây, ngọn cỏ. Tôi sẽ ở đây, quyết chí sinh tồn, bám trụ tới cùng cho tới ngày nhắm mắt. Tôi không cô độc. Tôi ở lại với Út Lài và tất cả mọi người.

Đồi đá tảng thâm trầm, ngân vang bài ca của ngàn năm, kể từ ngày mở đất.

Nhà thơ của “Cửa mở”: người mang diện mạo kép

Nhà thơ của “Cửa mở”: người mang diện mạo kép

Ta đau lắm những nỗi đau sinh nở / Cuộc đời, thân như hơi thở ta ơi / Ta vui lắm những niềm vui cởi mở / Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi
Thủ tướng: Làm cuộc cách mạng tổ chức bộ máy chắc thắng, không nửa vời

Thủ tướng: Làm cuộc cách mạng tổ chức bộ máy chắc thắng, không nửa vời

Baovannghe.vn -Sáng ngày 14/6, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội nghị toàn quốc tập huấn về tổ chức và hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị ở cấp xã (mới).
Chuyện kể lúc nửa đêm. Truyện ngắn của Trịnh Quang Thành

Chuyện kể lúc nửa đêm. Truyện ngắn của Trịnh Quang Thành

Baovannghe.vn - Ở bên cô bao năm, tôi chỉ biết cô không chồng, ở vậy trong nếp nhà chật hẹp này đã lâu. Chưa một lần cô nói chuyện đời tư, mà cũng chưa một lần tôi dám dò hỏi. Bởi cô là bậc trên, lại nữa, tôi còn lo học hành, thi cử và mơ ước có một tấm chồng.
Sếu, sen và em - Thơ Trần Huy Minh Phương

Sếu, sen và em - Thơ Trần Huy Minh Phương

Baovannghe.vn- Ta sẽ luôn nhớ về em như ngày xưa rạ rơm gọi mùi bùn đất/ trộn bên nhau mái đầu khét nắng
Hành trình kể chuyện bằng thiết kế bìa sách - báo chí

Hành trình kể chuyện bằng thiết kế bìa sách - báo chí

Lần đầu tiên, nghệ thuật thiết kế bìa sách, báo và tạp chí, lĩnh vực vốn âm thầm đứng sau ánh hào quang của tác giả và nhà xuất bản, được tôn vinh bằng một triển lãm quy mô toàn quốc, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam. Hơn một nghìn tác phẩm từ nhiều thế hệ họa sĩ được giới thiệu tại Nhà triển lãm Mỹ thuật Việt Nam, không chỉ mở ra một không gian thị giác đặc sắc, mà còn khẳng định vị thế của thiết kế bìa như một hình thức tự sự độc lập, góp phần định hình bản sắc văn hóa đọc Việt Nam.