![]() |
| Minh họa Đỗ Dũng |
1.
Mén vẫn nhớ hình ảnh người ba đầu tiên của nó. Từng đường nét trên gương mặt xanh xao, đôi má hõm sâu, hốc mắt lồ lộ, hàm râu lỉa chỉa, và những cơn say khướt bất tận. Nó ám ảnh những cú tát như trời giáng, những cú giậm chân vào bụng bình bịch. Những thứ đó chẳng có chi là tốt đẹp hết. Mà đúng ra, phải kêu đó là ác mộng mới phải. Nhưng kì lạ, Mén không tìm được từ nào khác để nhắc tới người đó, ngoài chữ “ba”. Lẽ ra nó phải căm thù ông ta tới xương, phải mạt sát chửi rủa ông ta như má, là “thằng khốn nạn”, là “thằng trời đánh”. Mén không làm được. Rốt cuộc, tình phụ tử với con Mén như tấm lưới cá, bao trùm nó cả một đời dài không chối bỏ nổi. Hay cái chữ “ba” đó nó còn gói ghém trong bụng hoài là tại người kia?
Người ba thứ hai. Đâu có phải? Đúng ra người đó không phải ba nó. Nhất quyết không phải. “Người mà nó không biết kêu bằng gì” dắt má con nó bỏ trốn trong một đêm đen tối mịt. Bữa đó trời không trăng không sao, bóng ba con người không danh phận nhấp nhô trên bờ sông lởm chởm đá. Con sông miên miết như bất tận, quanh co cùng trời cuối đất. Đi chi cái đường gập ghềnh đó? Để cho đời bây giờ bị sông cuốn phăng phăng chẳng thấy bến bờ. Nó thương nhưng nó cũng giận má. Má làm chuyện hổng giống ai. Chuyện lấy người đàn ông vô nghì đó đẻ ra nó đã là trái khoáy. Chuyện dắt con trốn chồng theo nhơn tình nhơn ngãi thì đáng gọi là trắc nết. Còn trái cang thường hơn, nhơn tình đó lại là một người đàn bà. Ừ, “người không biết kêu bằng gì”.
Người đó tên Xuân, Hai Xuân. Dì Xuân dặn con Mén là kêu bằng ngôi thứ thôi, đừng kêu cái tên. Còn má, má đốc cho nó gọi dì Xuân là “ba”. Trời đất, kêu sao được? Rõ ràng là đàn bà đây kìa? Cho dù dì Xuân cố tình cắt tóc ngắn, mặc áo sơ mi quần cụt, hút thuốc phì phèo, ép cổ họng mình khàn đặc đi, thì dì vẫn là đàn bà. Dì vẫn phải mặc đồ lót của phụ nữ, vẫn đau bụng kinh, vẫn không chối bỏ được giới tính trời sanh, giống như con Mén không chối bỏ được gã nghiện rượu kia là ba nó vậy.
Cái gia đình không giống ai đó của con Mén trôi theo dòng ra tới một xóm ven sông, xa tít mù khơi. Họ tạm bợ dựng lên một căn nhà nổi, bồng bềnh neo đời mình vào cọc. Nền sình mềm nhũn, có chắc chắn chi đâu? Chung quanh lối xóm cũng là những mảnh trôi giống họ. Những người đó chắp vá đời nhau thành tấm lưới cá, thả xuống sông từng cụm đơn côi, rồi phó mặc cho con nước nâng đời mình chìm hoặc nổi. Xóm tạm ven sông mà, đời thì cũng tạm bợ, đành vậy.
Con Mén dành gần hết thời gian của ngày lết quanh quẩn cái nền sàn kẽo kẹt cách mặt nước ba tấc. Nó phải lết, vì hai cái chân của nó từ đẻ ra đã còng queo, teo héo như hai khúc củi mục. Chân không đi được thì có để làm gì? Nó nghĩ như vậy. Cho dù cặp giò đó vô dụng, tới mức nó muốn chặt đi cho rồi, nhưng con Mén cũng phải kêu thứ đó là “chân”. Vậy là “chân” cũng giống như “ba”. Con Mén què quặt giữa những người đi thất thểu, vô định dọc xóm ven sông mỗi ngày.
Lúc má còn sống, bà hay ẵm nó đi vòng vòng xóm lúc chiều tà. Trời mưa trời gió, hai má con vẫn đi. Khi đó con Mén chỉ nặng chừng chục kí. Khoảng trời nhỏ bao trùm trên xóm ven sông đối với nó vừa rộng vừa chật. Những cái mái lá lem nhem, những tấm vách ván mục nát đã che mất một khoảng giữa vòm xanh lồng lộng. Má chỉ cho nó đây là tiệm cơm tấm. Chỗ kia là tiệm tạp hoá, chỗ nọ là quán cà phê. Nó ngó vòng quanh, giả điếc khi nghe văng vẳng đôi câu: “Ê, má con con què kìa!” “Ờ, bà đó ô môi.” Vậy rồi, má nằm lại dưới gốc ô môi thiệt.
Ô môi. Bóng cây tím hồng đó nở rực mỗi mùa hè, che kín mái nhà con Mén. Dì Xuân chọn chỗ này để cất nhà chủ yếu là vì nó cách xa thôn xóm một đoạn. Thiệt ra ban đầu dì tính ở gần lối xóm, để tối lửa tắt đèn có nhau, nhưng sau khi nhận ra những ánh mắt len lén ghim vào thân thể má con nó, dì đổi ý. Những cánh hoa ô môi đó mỏng tang, líu ríu trong gió rồi rụng lả tả xuống mặt sông. Chúng không nổi được quá lâu, cho dù mấy cánh hoa mong manh nhẹ hều. Sóng sẽ cuốn chúng đi rất nhanh, nổi chìm theo hai bận nước lớn nước ròng. Mỗi khi có vỏ lãi xẹt ngang, bông ô môi xoáy tròn theo trôn ốc rồi mất hút. Má chết sau một năm hiu hắt ở ven sông. Bịnh lao, thứ sẽ vắt người ta khô khốc như cây tre, ho khù khụ năm này qua tháng nọ bằng những tiếng cào xé ruột gan. Một bữa, con Mén thấy bà ói ra một bụm máu đỏ bầm, nó la hét ỏm tỏi lết ra miếng ván từ nhà bắt lên bờ, rốt cuộc bị té chủm xuống sông. Nước bữa đó ròng, sình dìm đầu nó xuống sâu hoắm. Nó không chết đuối, nhưng sình đã tràn vô họng, vô mũi nó. Đời nó kể từ má chết, dính dấp và bẩn thỉu.
2.
Dì Hai Xuân vậy mà vẫn giữ lại nuôi nó như con, đứa con mà dì không bao giờ đẻ được. Đúng như kiểu dì hay than thở với mấy ông hàng xóm bạn nhậu là: “Tui ở vậy nuôi con riêng của vợ.” Mấy cha đó hay cười mỉa, miệng không nói gì mà lòng nghĩ: “Bà là đàn bà mà, vợ cái cóc khô!” Con Mén ghét mấy ông đó. Nó không hiểu nổi tại sao dì Xuân phải tới lui với họ? Hay là dì cần một đám đông để hoà vào, gọi là có anh có em, để trong cái tụ đó, nhiều khi người ta sẽ mắng chung là “Mấy thằng bợm!” Chắc dì thích người ta kêu dì là “thằng” lắm.
Dì Xuân bấy giờ xin được chân lái chẹt, chở khách qua sông. Hồi lúc gặp chủ, dì năn nỉ thiếu điều quỳ xuống mà lạy người ta, rằng dì sức vóc không thua chi đàn ông thứ thiệt hết. Dì có thể giăng nắng giăng mưa, lái chẹt xuyên suốt ngày đêm mà không bao giờ than mệt. Con Mén nó biết, những người như dì hay cố sức để chứng tỏ sự nam tính, có khi tới cực đoan. Họ dùng lí trí để ép mình làm được tất cả mọi chuyện, không chân yếu tay mềm, rồi chối bỏ cái thể xác trời sinh mềm mỏng đó. Chuyện đó nó cũng hao hao như chuyện dì muốn nó kêu là “ba” vậy đó. Không! Cho dù nó mang ơn cưu mang tới mức nào thì cái chữ “ba” nhứt quyết không để dành gọi một người đàn bà.
Bến sông này ngày cũng như đêm, đều rũ buồn, hắt hiu, vời vợi. Những con nước gợn đục quày quả mải miết không thấy quay đầu. Dì Xuân mắc phải đi làm, hết lái chẹt rồi quay sang bán lưới cá. Dì thèm tiền, không biết để chi, cũng giống như con Mén thèm biết đi đứng. Từ ngày má chết, con Mén ru rú trong nhà. Đâu còn ai rảnh mà ẵm nó đi đây đi đó? Căn nhà sàn chật ních sáu mét vuông đó bao nó lại như bốn bờ đê khoá chặt dòng chảy. Vậy mà nó lọt thỏm giữa bốn bức vách này cũng đã chín mười năm. Nó lết tới lết lui, có bữa kẹt miếng ván, kéo áo rách một mảng lớn. Cái áo cũ xì, nó cũng không tiếc lắm. Dù sao đi nữa nó ít khi nào mặc được cái áo không dơ hầy phần bụng. Què mà, gần xịu mặt đất mà, không dơ sao được? Nó mặc kệ, nằm ngửa ra đó mà ngó trần nhà. Nó dùng năm ngón tay khẳng khiu chơi đùa với nắng. Mấy tia sáng lưa thưa chấp chới tràn qua kẽ lá lợp. Vài hột bụi miên di trong không gian. Một hột, hai hột, ba hột. Một hột rớt lên đầu ngón tay. Bụi nhẹ hều hen?
Chiều tà buông mấy tiếng chim kêu xa xa. Một lọn khói từ nồi cơm sôi nào đó lạc dòng bay vào căn nhà ván. Con Mén đương nhìn khói, bỗng nghe tiếng đá dội vào vách đánh “Đùng!” Ai chọi? Nó quay đầu nhìn, nghe giọng con nít cười ha hả, vang vọng xa dần. “Con què! Con què!” Bữa đó, dì Xuân về, mang theo chai rượu đế. Dì ngồi chông ngốc ở mé nước, ngó ra minh mông. Giữa hai lần ngửa cổ tu ừng ực, tiếng hức bật ra ngắt quãng. Dì trả lời cho cái nhìn nín nặng của con Mén bằng chút ngập ngừng. “Ba…” Im lặng. “…Dì… nhớ má con.” Im lặng. Nước lững lờ trôi, dốc chiều nghiêng một độ tràn lan mặt sóng. Cây ô môi trút lá. Những cánh hoa tím hồng linh đinh, tụ lại nơi mấy gốc cột nâng căn nhà lơ lửng giữa mặt sông.
3.
Dì Xuân vẫn thường hay kể lể cho nó nghe chuyện tình của dì và má. Câu chuyện đó vô thực, y rang chuyện cổ tích. Nó không đồng cảm nổi khi trong lời kể, má nó giống nàng công chúa, được chàng tráng sĩ cứu đi khỏi tay con yêu nghiệt. Nó cười chua chát, chèn ơi, yêu gì thắm thiết dữ vậy sao? Chàng tráng sĩ đó cao một mét năm mươi lăm, mập lùn, chưa bao giờ có nổi một cọng râu. Còn nàng công chúa thì gầy đét, khô khan tới mòn mỏi. Con của nàng công chúa còn què nữa. Cổ tích gì kì vậy? Chuyện cổ tích lúc nào cũng có đoạn kết: “…và họ hạnh phúc mãi mãi về sau.” Nhưng “mãi mãi” là xa lơ xa lắc nào? Có nghèo không? Có đói không? Có danh có phận gì không? Hay là cứ trôi lững thững, tìm hoài không ra một cái tên gọi? Dí mặt sát đất, hửi mùi minh mông mà chưa bao giờ có thể đặt lòng bàn chân xuống đứng lên?
Dì Xuân thương con Mén, nó biết. Nó cũng thương dì, nhưng thứ tình thương đó trắc trở và bị chắn ngang bởi mấy bức tường. Tối, nó nằm cạnh dì, nghe nước chảy bên dưới lưng. Hồi đó, người ở giữa dì và nó là má. Còn bây giờ, khoảng trống đó chơi vơi, chơi vơi.
- Nữa lớn, con muốn làm gì Mén?
Nó chưa hiểu câu hỏi.
- Con… muốn đi chơi!
- Đi đâu chơi?
- Đi… à… lên bờ.
Dì Xuân lặng thinh. Hồi lâu lắc sau, dì thì thào:
- Dì cũng muốn lên bờ.
Ước mơ đó của dì vậy mà sắp thành sự thực. Có người đàn ông tới thông báo, xóm ven sông sẽ bị di dời đi hết. Chỗ này luộm thuộm quá, phải dẹp đi chừa chỗ cho thứ khác khang trang hơn. Bữa đó nắng chiếu xiêng xiêng. Người kia đi rồi, bóng dì Xuân vẫn còn đứng thừ ra ngay ngạch cửa. Ánh sáng vàng phủ khắp người dì, tấm lưng quay vào trong, ngược chiều chói chang. Những tia lưa thưa mơn man lên mấy sợi tóc húi cua nơi ót. Dì Xuân quay đầu nhìn con Mén. Nó lấy tay khều cặp chân trơ trọi của mình, giấu mất ra phía sau.
Thứ khang trang trong lời nói của người đàn ông là một cây cầu. Đó sẽ là một huyết mạch, đạp lên trên dòng chảy, nhảy thẳng qua bờ bãi bên kia, nơi con Mén chưa từng đặt chân tới. Ờ, mà nó đã đặt chân lên cái gì bao giờ đâu? Cũng vậy thôi. Nhưng cầu mà xây xong thì cái chiếc chẹt túm húm kia chắc là mất bến đậu. Có cầu rồi, dễ đi quá, ai mà thèm lênh đênh? Dì Xuân đẩy cái cần điều khiển, khói đen bốc ra từ cỗ máy ì ì. Chiếc chẹt trôi ngang, một cụm lục bình bất thần kẹt vô bánh lái cứng ngắc.
Từ bữa đó, dì đi làm lâu hơn nhiều lắm. Hình như dì Xuân muốn kiếm thiệt nhiều tiền trước khi chiếc chẹt ngưng chạy. Một ngày, dì ra khỏi nhà phải mười lăm mười sáu tiếng. Con Mén trong nhà, nhiều lúc tới giờ cơm, thấy hiu quạnh buồn thiu. Vậy mà nó nhớ dì đó sao? Một tối, ễnh ương kêu rất nhiều. Những âm thanh oang oác đó vang vang mặt nước. Con Mén lết ra ngạch cửa, ngó xuyên qua miếng ván bắt lên nhà, chờ cái bóng lùn lùn, mập mập. Rồi nó thấy từ trong bờ bãi có mấy bóng đen lúp xúp. Những dáng hình liu xiu, nhập nhoạng, mù mờ. Đâu chừng ba bốn người. Những người đó tiến về căn nhà sàn ven sông, đứng trước đầu cầu mà nhìn trân trân vào nó.
Từng thằng một nhảy lên cầu ván. Miếng cây rung lên bần bật. Con Mén ngã ngửa ra, nghe đời ngoài kia tràn xổ vào bốn mảnh vách cây. Miệng nó bị dồn cứng bởi một vật gì tanh tưởi. Tay nó bị ghì chặt. Còn chân, như thường lệ, đâu có cảm giác được gì. Chút sức lực từ eo trở lên bung ra, chưa đủ mạnh để gọi là vùng vẫy. Thứ mạnh mẽ nhứt của nó bây giờ tuôn ra được là nước mắt. Con nước khi đó đã dồn thêm một cơn sóng cồn.
Thằng thứ nhứt. Cơn đau xé toạc bến sông đêm thăm thẳm. Con Mén chưa bao giờ cảm nhận được cảm giác nào lớn như vậy từ nửa phần thân què quặt kia. Thằng thứ hai. Nước bên dưới sàn nhà nhấp nhô bì bõm. Nó cũng nhấp nhô bì bõm. Những chao đảo, rã rời, gãy nát, bể vụn. Thằng thứ ba. Một cơn gió lạnh thốc ngang. Những kẻ ván thở ra mấy hơi não nượt. Tấm bạt cao su trước cửa nhà giật phành phạch. Một cánh vạc buồn chao liệng ngang qua, đánh rớt tiếng kêu chiều. Thằng cuối cùng, con Mén ngó thẳng lên trần nhà. Nước vòng quanh đồng tử khiến cả không gian rung rinh, dờn dợn. Nó khép mi, một dòng rớt xuống. Nó mở mắt ra, thấy bóng đèn cà na leo lét đung đưa. Trong thứ ánh sáng phe phẩy bóng tối đó, nó thấy có mấy hạt bụi bay bay. Bụi, nhẹ hều hen?
Khuya, dì Xuân về chỗ gọi là nhà. Giữa nhà, một vũng nước anh ánh nhấn chìm đôi chân tật nguyền của con Mén. Bóng đèn cà na trên đầu chưa hết đung đưa. Mấy tấm ván lót sàn hở ra vài khe hẹp. Những giọt đỏ hồng theo đó mà nhỏ xuống dòng sông.
4.
“Con nít đẻ ra ở xóm mé sông giống con thòi lòi.”
Một cô hàng xóm nào đó qua thăm con Mén đã nói vậy. Con Mén thắc mắc, sao so sánh lạ he? Mà cũng đúng. Con vật lưỡng cư đó cá không ra cá, mà ếch cũng không ra ếch. Nó chui rúc trong sình, hai cái chân trước không đủ để chạy nhảy, còn cái đuôi cũng không đủ khoẻ để bơi ngược con nước. Đời nó là để trốn. Nó chỉ dám trồi đầu lên khi tờ mờ hoặc chạng vạng, lúc nước đã ròng. Vậy mà con người đâu có tha, vẫn luôn rình bắt nó.
Kể ra thì, lối xóm không tới nỗi tệ lắm. Họ vẫn sang thăm, lâu lâu còn có kí gạo, vài bộ đồ con nít cũ, một hai lon sữa đặc, cho dù lời nói giỡn chơi của họ lắm lúc như lưỡi dao cứa vào tim con Mén.
“Bây biết ba nó là ai hông?”
“Bây nhớ kĩ lại coi, thằng nào vô trong?”
Con Mén không phân biệt được họ đang tình thiệt, hay là đang nói mé để đã cái nư. Đời họ cũng khổ, có hơn nó được bao nhiêu? Nhưng người ta vậy đó, dìm người khác xuống để thấy phận mình bớt khổ. Dẫu sao thì họ cũng có đàng hoàng một danh phận, khác với con Mén và dì Xuân. Cho dù chồng họ phạm tội ở tù, hoặc là con họ nghiện ngập, thì trên đời này họ vẫn còn một cái tên để gọi. Con Mén, dì Xuân, và đứa nhỏ mới đẻ này thì y hệt giống thòi lòi. Mấy người đó ra về, con Mén pha ly sữa đút cho đứa nhỏ, thấy nó chép chép ngon lành. Dì Xuân buột miệng: “Má tụi nó, mấy con mẹ nhiều chuyện!”
Con Mén vô tri trước chuyện có đứa con. Nó cứ nghĩ, đàn bà thì phải đẻ con, đẻ rồi thì phải thương, thương thì nuôi, không có cơm thì ăn cháo. May mà dì Xuân là đàn bà, không thì thiên hạ thế nào cũng đồn dì ở với nó có con. Nó nhớ lại chuyện má, ba, với dì Xuân, thấy tình yêu là một cục gì không hiểu được. Bốn người đàn ông đó nó cũng chẳng thắc mắc là ai, biết được thì sao, làm gì bây giờ? Khi nỗi đau đó liền miệng, nó dùng đứa nhỏ như miếng băng gạc quấn rịt cái thẹo mất hút. Thôi, phận mình vậy, thì vậy.
Đứa nhỏ có cặp giò lành lặn, hai lòng bàn chân phẳng lì, từng ngón chân no tròn như nải chuối cau. Dì Xuân ẵm cháu, đi ra đi vào tưng tiu nựng nịu. Con mén nhìn mặt dì thấy còn hạnh phúc hơn hồi mới ở với má. Nó thấy ngày nào dì cũng mua bánh, mua trái, ngày nào cũng kẹp nách xách đứa nhỏ đi khoe dọc bờ sông. Nó nhìn thấy má ở trong dì. Bữa, nó giật mình nghe dì Xuân trong cơn vui, nói với đứa nhỏ: “Nữa lớn ông ngoại dạy con tắm sông nghen!” Không hiểu vì sao, vì cái lẽ gì, con Mén lần đầu tiên trong đời biết trừng mắt, hét một tiếng lớn: “Dì!” Dì Xuân sững người, mặt trắng bệch, đôi lông mày hiền hoà khi ấy nhíu lại, nhăn nhăn những đường rãnh giữa thái dương. Dì trả lại đứa nhỏ vô vòng tay con Mén. Rồi, dì Xuân quay đầu đi ra cửa mất hút.
Mây trời trôi xuôi, sông đời chảy dọc. Xóm giềng lần lượt dỡ nhà ra đi. Cây cầu sắp tới thời hạn khởi công. Người ta xuống nhà đốc cho gia đình con Mén di dời theo xóm. Con Mén không hiểu chuyện, thấy dì Xuân la hét, cãi lộn um sùm. Hình như dì đòi thêm tiền đền bù, nhất quyết ở lì ở đây. Người bên kia nói bà ở đây là trái phép rồi, còn yêu sách? Nhiêu đó là quá rộng rãi với bà rồi! Bà mà không đi, tụi tui cưỡng chế ráng chịu, không có một cắc. Con Mén thắc mắc, sao mình không đi cho rồi, chống đối chi vậy dì? Dì Xuân lắc đầu, không đủ tiền lên bờ con à. Rồi đứa nhỏ sống làm sao? Con Mén thừ người, ngó một vòng quanh bốn bức vách cây đã mục nát, hao mòn theo năm tháng. Nó xập xệ quá rồi, mà cứ phải bám lấy, không buông ra được.
5.
Đợt mưa trái mùa năm đó lớn lắm. Giông gió từ bên kia sông rẽ ngang, huơ qua căn nhà nổi ven sông, khiến sóng lớn tràn vô từ kẽ vách. Miếng ván bắt lên bờ bị nước giật lấy, trôi đâu mất hút. Cây ô môi kế nhà run rẩy, tung đầy trời những túm lá ướt sũng, nhá nhem. Nước sông ồng ộc bung toả khắp nơi, triều dâng từ phía dưới cũng phun lên như thác lũ. Con Mén đâu có đứng lên được? Nó ẵm con, rẽ nước, lết lại cái bàn để nồi niêu xoong chảo mà trầy trật hoài không leo lên được. Nước mắt đứa nhỏ cùng nước mắt con Mén, hoà với nước sông, đục ngầu một đoạn. Dì Xuân huơ tay hất hết đồ trên bàn xuống, gồng mình ẵm hai mẹ con lên bàn. Dì hét trong tiếng đì đùng của trời đất. “Ngồi yên!”
Nói rồi, dì cầm thau tát từng bụm nước hất ra ngoài. Những dòng đổ đi đó chỉ như giọt nước trả ngược về sông. Nước trong nhà bây giờ dâng ngang với mực sóng ngoài kia. Nó tràn lan, nó cuồng loạn. Con Mén ngó ra gốc ô môi, thấy nấm mộ của má đã chìm sâu vào dòng lũ từ hồi nào không biết. Vòm trời xanh trong đã xám ngoét. Mây trắng bây giờ đã đen thùi, cuốn thốc những gợn sét nhập nhoạng chân trời. Sét hiện ra trước, tiếng sấm ầm ầm tới sau.
Những chân cột chống đỡ mái nhà khi ấy không còn chịu nổi, cũng kèn kẹt cứa vào nền sàn. Tiếng gãy nứt réo lên bên dưới. Dì Xuân không do dự, nhảy ùm theo con nước. Dì đi tìm cách gia cố lại cột kèo. Nhà dột cột xiêu, sức nặng hai má con con Mén bên trên đè xuống, còn sóng lớn xô nhau đập vô tấm lưng của dì.
“Bỏ nhà thôi dì ơi…!!!!”
Giọng con Mén tan ra theo hơi gió thốc. Tiếng khóc đứa sơ sinh ré lên, giày vò cuộc nổi trôi. Dì Xuân không trả lời, tay búa tay đinh, lấy củi mà vá kèo cột đang trong ngập ngụa dòng lũ. Cây cột gãy rắc sau một nhát búa vô vọng. Căn nhà chao đi, đổ sạt xuống bến sông. Nước trời gầm lên, cười vang một tràng hả hê.
Đứa nhỏ lơi khỏi tay con Mén giữa khoảng không chao đảo. Nó rớt xuống, nước bắn lên, thấy tung toé chằng chéo. Khoảng trời đen phía đứa nhỏ như khối đá, kéo giãn cơ thể con Mén dài ra. Phần chân teo tóp của nó thì như ghì lại, xé toạc nó ra làm hai mảnh. Con Mén đập hai bàn tay vẫy vùng trong cuồng loạn. Nó chụp lấy khoảng không, không khác chi động tác lúc bị đè bởi gã đầu tiên. Gã đó xong rồi, sẽ tới gã thứ hai. Rồi thứ ba, thứ bốn. Rồi con Mén sẽ không buồn đập tay nữa. Sẽ không còn muốn đập tay nữa.
Dì Xuân bơi trong dòng lũ. Người đàn bà mập mạp, lùn xủn, có cái cười hiền hoà đó đang bơi. Những cái nhoài người như con thòi lòi bơi ngược triều cường, với hai cái vây cụt lủn và cái đuôi yếu xụi. Cái ót húi cua nhập nhoạng trong sóng cồn. Tấm áo sơ mi mòn tới vai, mỏng mảnh lộ ra cọng dây áo ngực. Dì không hét, không la, không nói gì hết. Dì hớp từng ngụm không khí trộn lẫn với nước mưa. Bão lũ tràn qua miệng dì, xối phăng phăng vào buồng phổi. Dì Xuân chụp được đứa nhỏ. Nó nổi lên trên mặt nước, tách khỏi ba đào một tấc, không xa. Con Mén quơ tay, túm trúng cái áo đứa nhỏ khi dì Xuân đẩy nó vào hướng căn nhà đã sập. Một tay nó giữ chặt con, tay kia ôm cứng cái cột gãy phân nửa, lỉa chỉa dằm vụn. Bông ô môi trút xuống như mưa, rì rào phủ ngập sắc tím hồng dập dềnh chung quanh. Căn nhà tràn những cánh hoa tả tơi dán vào ván mục. Mén thấy đời mình vừa bị xé đôi đó, đã ráp liền lại tức thì khi ghì được đứa nhỏ chắc chắn trong lòng. Sống rồi! Sống rồi! Cơn sung sướng bùng lên ngay sau phen hú vía, lại bị dập tắt ngay bởi một tia sét cắt ngang trời. Dì Xuân… đâu mất rồi? Con Mén ngơ ngác, quay đầu nhìn mười phương tám hướng. Nước nối nước, nước nối trời, cả không gian bây giờ chẳng còn gì ngoài minh mông vô định. Nó nghe đời mình siết lại khi thấy thấp thoáng một mái tóc ngắn húi cua. Những sợi tóc trên đó đã tới mùa ngã bạc. Khi đó, nó bỗng quên cách điều khiển câu chữ. Tiếng thét không thành lời, vấp té, rớt chủm xuống dòng sông. Miệng nó đắng chát, nghe nhịp tim mình đập dồn một tiếng “Ba…!”
6.
Cây cầu đúc lớn nhứt huyện đã hợp long. Cuối cùng, cũng có ngày cù lao nối liền vào đất. Khu bãi bồi bây giờ trở thành bờ kè, đèn đóm sáng choang, bồn hoa sắc màu từng len ánh lên đẹp đẽ. Những căn nhà cây lấn ra mép nước đã bốc hơi hết như chưa từng tồn tại. Chuyến chẹt bắt ngang đôi bờ bây giờ đã nghỉ hưu, sau mấy chục năm đưa khách ngược xuôi. Còn những người sống bám vào dòng sông ở đoạn này, chắc họ đã có một đời sống khác mất rồi. Họ đi đâu, họ về đâu, ai có biết rồi thì cũng sẽ quên. Rồi lứa con nít sau này, sẽ chẳng đứa nào mảy may biết tới dáng hình của bãi sông lúc chưa có cây cầu. Lúc đó, người sống bám vào sông nhiều lắm, tới không nhớ hết. Đời sông là cuộc chìm trôi, còn đời mấy người đó thì lúc nào cũng bị kẹt lại. Tụi nhỏ sẽ không biết, nhưng cây thì biết. Cây ô môi cổ thụ còn đó, rễ nó bị bó lại bởi một cái bồn gạch tròn xoay. Nó rớt sót một cánh hoa cuối cùng xuôi theo dòng chảy. Con nước bỏ đi, vô tình mang theo cánh hoa tím hồng man mác. Sao nó buồn tới vậy? Chắc con nước đó… nó mồ côi.