Giếng vuông không đơn thuần là công trình khai thác nước, mà từ lâu đã trở thành biểu tượng văn hóa của làng xã truyền thống Việt Nam. Với người dân vùng Trung du Bắc Bộ, giếng là nơi gắn liền với đời sống sinh hoạt, sản xuất, thậm chí mang ý nghĩa tâm linh, phong thủy. Tại huyện Tân Yên, số lượng giếng vuông chiếm tới 17/18 giếng cổ của toàn tỉnh, phản ánh rõ điều kiện tự nhiên thuận lợi và sự sáng tạo của cộng đồng cư dân qua nhiều thế hệ.
![]() |
| Giếng làng Quyên, xã Nhã Nam |
Trên phạm vi cả nước, giếng vuông cũng xuất hiện ở nhiều vùng đất, mỗi nơi lại có một câu chuyện riêng. Ở Hội An (Quảng Nam), giếng Bá Lễ nổi tiếng với nguồn nước ngọt trong vắt, mát lạnh, không bao giờ cạn, được cư dân đô thị cổ trân trọng như báu vật. Ở các làng ven biển miền Trung, giếng vuông thường được xây kiên cố bằng đá san hô hoặc đá ong, chống xâm thực mặn, phục vụ cho cả cộng đồng. Ở đồng bằng Bắc Bộ, từ Hà Nam, Thái Bình đến Nam Định, nhiều làng cổ vẫn còn giữ được giếng vuông nằm cạnh đình, chùa – vừa là nơi cung cấp nước, vừa là điểm tập trung lễ hội làng.
Điểm chung ở các giếng vuông khắp mọi miền là sự lựa chọn hình thức kiến trúc hài hòa với địa hình, khí hậu và vật liệu bản địa. Giếng vuông trở thành một phần của “bộ ba” văn hóa làng truyền thống: đình – chùa – giếng, nơi hội tụ cả yếu tố sinh hoạt và tín ngưỡng.
Tân Yên nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Bắc Ninh, là vùng chuyển tiếp giữa trung du và đồng bằng châu thổ sông Hồng. Địa hình bán sơn địa với các dãy đồi thấp xen kẽ thung lũng, đồng ruộng tạo nên những bồn địa và túi tích nước tự nhiên. Độ cao trung bình 20–60m, có xu hướng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, thuận lợi cho việc dẫn lưu và tích tụ nước ngầm. Nền địa chất cổ thuộc hệ tầng Kainozoi, cấu tạo bởi đá phiến sét, đá vôi, đá biến chất đã phong hóa, phủ trên là lớp phù sa cổ và đất feralit. Đặc biệt, sự hiện diện của đất sét pha, cát pha và tầng đá ong – đá laterit giúp lọc và giữ nước hiệu quả. Ở nhiều vùng, lớp đá vôi xen kẽ còn cho phép dòng nước ngầm lưu thông dễ dàng, bổ sung nguồn nước cho giếng quanh năm.
Kết quả khảo sát địa chất thủy văn cho thấy tầng chứa nước tại Tân Yên nằm ở độ sâu 3–10m, tập trung tại các vùng trũng, ven chân đồi. Lớp phù sa cổ và đất sét pha có tính bán thấm giúp nước vừa dễ thẩm thấu, vừa được giữ ổn định, hạn chế ô nhiễm. Nước giếng ở các xã như Phúc Hòa, Quế Nham, Ngọc Lý nổi tiếng trong, mát, ít cặn và có thể uống trực tiếp. Nguồn nước ngầm tại đây luôn được tái tạo nhờ lượng mưa dồi dào, dòng chảy mặt và dòng thấm từ hệ thống sông suối. Điều này giải thích vì sao nhiều giếng cổ hơn 150–200 năm vẫn còn nước trong và ổn định.
Hai dòng sông chính chảy qua huyện là sông Thương và sông Nhâm Ngao. Sông Thương giữ vai trò “xương sống” thủy văn, còn sông Nhâm Ngao điều tiết nước cho vùng Tây Nam. Ngoài ra, mạng lưới ngòi nhỏ như Đa Mai, Cầu Liềng, Ao Son cùng hệ thống thủy nông Sông Cầu góp phần bổ sung nước ngầm, đặc biệt trong mùa khô. Chính sự giao thoa giữa sông suối, ngòi nhỏ và địa hình đồi thoải đã hình thành mạch nước ngầm ổn định, nuôi dưỡng các giếng vuông quanh năm.
![]() |
| Giếng đình Hả, xã Nhã Nam |
Giếng vuông ở Tân Yên được xây bằng gạch chỉ nung hoặc đá ong đẽo, miệng cao hơn mặt đất khoảng 25–30cm để tránh tràn nước bẩn. Đáy giếng thường lót sỏi, cát để lọc nước tự nhiên. Hình vuông giúp dễ thi công, tiết kiệm vật liệu, phù hợp với chất đất nện và đá ong phổ biến. Kinh nghiệm chọn vị trí đào giếng được truyền qua nhiều đời: nơi đất luôn ẩm, cây cỏ xanh quanh năm, trâu bò thường nằm nghỉ… là dấu hiệu có mạch nước. Người dân còn để giếng “nghỉ” một thời gian sau khi đào để ổn định nguồn nước trước khi sử dụng.
Các giếng vuông không chỉ phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt mà còn là trung tâm giao lưu cộng đồng. Chúng thường xuất hiện ở các làng có lịch sử lâu đời, tổ chức xã hội chặt chẽ và tri thức bản địa phong phú. Vị trí giếng gắn với các thiết chế văn hóa như đình, chùa, miếu, tạo nên một tổng thể không gian làng hài hòa. Từ góc độ nghiên cứu, giếng vuông được coi là “chỉ báo địa – văn hóa”, phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa môi trường tự nhiên và đời sống cộng đồng. Dù ở Tân Yên, Hội An hay vùng đồng bằng Bắc Bộ, giếng vuông vẫn mang cùng một thông điệp: con người biết chọn vị trí, vật liệu, kỹ thuật để hòa hợp với thiên nhiên, duy trì nguồn sống bền vững.
Trong bối cảnh đô thị hóa và biến đổi khí hậu, nhiều giếng cổ đang bị lấp bỏ hoặc xuống cấp. Việc bảo tồn cần được đặt trong chiến lược phát triển bền vững, kết hợp giữa nghiên cứu khoa học, bảo vệ di sản và khai thác giá trị du lịch.
Các giải pháp khả thi là lập bản đồ địa chất – thủy văn các khu vực có giếng vuông, đồng thời, đưa giếng vuông vào sản phẩm du lịch văn hóa – sinh thái. Bên cạnh đó, tổ chức truyền thông, giáo dục cộng đồng về giá trị và kỹ thuật bảo dưỡng giếng cổ.
Giếng vuông Tân Yên không chỉ là nguồn nước quý mà còn là chứng tích lịch sử – văn hóa của một vùng đất. Cùng với những giếng vuông nổi tiếng khắp cả nước, đây là minh chứng cho trí tuệ dân gian và sự thích nghi khéo léo của người Việt, để lại bài học quý giá về gìn giữ và sử dụng tài nguyên bền vững cho mai sau.
Nguyễn Thị Thanh Huyền