Sự kiện & Bình luận

Hi sinh ở mặt trận phía Nam. Bút ký của Nguyễn Ngọc Lợi

Nguyễn Ngọc Lợi
Bút ký phóng sự 11:19 | 26/07/2025
Baovannghe.vn- “…Hi sinh ngày 18 tháng 11 năm 1972 tại mặt trận phía Nam” - Đó là mấy lời ghi trong giấy báo tử cậu em vợ tôi. Liệt sĩ Vũ Bá Tốp, nhập ngũ tháng 1 năm 1972. Lần nào đọc lại dòng chữ này lòng tôi cũng bứt dứt không yên.
aa

“Mặt trận phía Nam”, mặt trận phía Nam trong kháng chiến chống Mỹ trải dài từ bờ Nam sông Bến Hải vào tít tận Cà Mau, mảnh đất cực Nam Tổ quốc. Nào Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Rồi KonTum, Pleiku, Đắc Lắc của Tây Nguyên, Rồi Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Sài Gòn, Đồng Tháp... Bao nhiêu sông suối, bao nhiêu đèo cao vực thẳm, bao nhiêu rừng rậm hoang vu… Biết tìm em tôi nơi đâu. Nghĩ lại thấy người ta cũng chỉ biết báo thế thôi. Hoàn cảnh chiến tranh làm sao biết được cụ thể đơn vị cậu làm nhiệm vụ ở đâu. Bom rơi, pháo nổ chỗ nào… Hành quân đêm ngày. Đói, mệt, ốm.. kiệt sức… nằm lại. Đơn vị mải miết đi. Rừng núi, trận đánh, cả đoàn lo đi nhanh thoát vùng chiến sự. Ai đó hi sinh, đồng đội cũng chỉ biết vùi lại bên đường, sơ đồ mộ chí cũng vẽ qua quýt nhét vội vào túi, vào ba lô, nhưng rồi cũng thất lạc. Lọ pê ni xi lin ghi “họ tên, quê quán, đơn vị… khi cần báo tin cho ai” bỏ vào túi áo người chết, nhưng người có người không. Từng là lính đi chiến trường, từng chứng kiến đồng đội hi sinh nên tôi biết vậy.

Hi sinh ở mặt trận phía Nam. Bút ký của Nguyễn Ngọc Lợi
Minh họa Ngô Xuân Khôi

Liệt sĩ không tìm ra tung tích, không có mộ phần, hoặc có mộ nhưng chưa xác định được danh tính. Có những ngôi mộ chung do bị vùi tập thể. Có trường hợp nhiều người cùng đơn vị bị bom, người ta chỉ nhặt vội thi thể của họ rồi vùi đâu đó dọc đường bom đạn. Không thể thống kê hết những trường hợp bỏ mình của lính. Cả trăm cả nghìn kiểu chết, chết do đói khát, chết do đất đè đá sập, chết do rơi vực, chết do rắn cắn, chết do nấm độc, chết do bom pháo, chết do đạn thẳng, chết do đạp mìn... chết do sốt rét, có trường hợp bị sốt rét, một mình mắc võng nằm lại dọc đường rồi âm thầm chết…

Tôi nhập ngũ tháng 5 năm 1972, vậy là sau em 5 tháng. Lúc đó anh em tôi chưa biết mặt nhau. Tháng 4 năm 1973, sau chiến dịch ở chiến trường Trung Lào, tôi được cho đi tranh thủ thăm nhà. Tôi xuống thăm nhà người yêu, bố mẹ vợ chưa cưới của tôi còn sống trong ngôi nhà tranh rách nát, nền đất vách đất, gian bếp là một chái nhỏ lụp xụp bên hông nhà. Bàn thờ cậu em là tấm ván nhỏ bắc ngang treo cao tận gần nóc nhà với tấm bằng “Tổ quốc ghi công” và bát hương nhỏ lơ thơ mấy cọng chân nhang. Mỗi lần muốn thắp hương phải kê ghế hoặc đứng lên giường mà với tay lên. Lúc này ông bà đã ngoài bảy mươi, già yếu lọm khọm, sớm chiều vô ra âm thầm như những cái bóng. Ông bà ít khi nhắc đến việc cậu hi sinh, như nén đau thương trên khuôn mặt rầu rĩ đầy cam chịu.

Cậu là con trai duy nhất của ông bà, tính theo thứ tự là con thứ ba. Chị cả đi công nhân tận Nghĩa Đàn và đã lấy chồng trên đó. Chị thứ hai là vợ chưa cưới của tôi, làm việc ở Vinh. Em gái út mười bốn tuổi còn đi học. Nhà chưa có người đi bộ đội, đang là trai mười chín, cậu viết đơn tình nguyện thay các chị đóng góp máu xương đánh Mỹ. Cậu đi để các chị yên tâm công tác. Cậu đi để bố mẹ có thể ngẩng đầu với mọi người. Tôi được mọi người kể lại thế. Các chị đi hết, ở với ông bà chỉ còn dì út. Đang giữa cấp 2, dì bỏ học ở nhà làm kiếm công điểm với hợp tác xã vừa chăm sóc bố mẹ già.

Bố mẹ vợ tôi gốc gác tận Nam Trực, Nam Định, lưu lạc vào Quỳnh Hồng, Quỳnh Lưu. Ông bà hiền lành, phúc đức, được bà con láng giềng quý mến. Con trai duy nhất hi sinh ông bà âm thầm chịu đựng, không hề kêu ca oán thán.

Lần về tranh thủ đó, cưới vợ xong được vài ngày thì tôi chào ông bà ra đi, và đi mãi tới tháng 9 năm 1977 mới được ra quân. Thương ông bà, nhiều lần tôi dò hỏi tung tích về cậu nhưng chẳng ai biết. Mỗi năm đến “ngày thương binh, liệt sĩ 27 tháng 7” địa phương cử người mang đến mấy lạng đường, vài chục bạc… Chứng kiến những cảnh đó tôi chỉ biết nén lòng trong day dứt. Tôi chỉ mong có manh mối nào để dò hỏi, rồi dù khó khăn đến đâu cũng tìm bằng được tung tích cậu. Thế rồi bà mất, năm 1980. Và năm 1985, ông cũng mất. Ông bà mất khi chưa biết tăm tích con trai nằm đâu. Tôi mang nỗi canh cánh này mãi trong lòng, để rồi mấy năm sau nghe tin ở Quỳnh Lâm, có người biết tin trường hợp cậu hi sinh. Sáng đó vợ chồng tôi tìm lên. Cựu chiến binh cho biết, anh cùng đơn vị từ Thừa Thiên ra, dọc đường nghe tin đơn vị Tốp người Quỳnh Hồng, vừa qua sông Bên Hải đã bị B52 rải thảm trúng đội hình. Anh em chỉ vội vàng gom nhặt các mảnh thi hài rồi chôn chung một chỗ… Anh chỉ nghe vậy thôi, ngoài ra chẳng biết thêm gì hết. Hỏi anh rằng lần đó anh gặp ai, nghe ai nói thì anh không nhớ. Quân vào quân ra, biết bao nhiêu người, bao nhiêu khuôn mặt. Có trường hợp anh em ruột gặp nhau cũng chỉ biết nắm vội tay nhau, trao nhau bánh lương khô, nhúm thuốc rồi vội vàng đuổi theo đơn vị… Tôi quá hiểu điều đó. Vậy là thông tin này chẳng mang lại chút hi vọng, dù là nhỏ nhoi nào. Tất cả vẫn mung lung mờ mịt. Đơn vị vượt sông Bến Hải, vậy thì vượt ở quãng nào? Hành quân qua Bến Than hay Bến Tắt, hay qua sông bằng bè bằng thuyền? Thượng nguồn Bến Hải mùa khô nhiều đoạn lội qua được. Làm sao biết đơn vị cậu qua sông đoạn nào để hình dung nơi cậu bị bom, nơi có xương cốt cậu?

Còn nhớ, cưới vợ xong, tháng 4 năm 1973 tôi theo đơn vị vào miền tây Lệ Thủy, Quảng Bình, rồi tiếp đó, sang năm 1974 vào Vĩnh Linh. Trên địa bàn của các đơn vị “ăn cơm bờ Bắc đánh giặc bờ Nam”, là bàn đạp, nơi tập kết của nhiều đơn vị vào Nam đánh giặc nên cũng là vùng đất bị địch đánh phá nhiều nhất. Vậy là tôi đang rất gần nơi cậu hi sinh. Sau 30 tháng 4 năm 1975, đơn vị tôi được giao nhiệm vụ làm đường tàu Thống Nhất, lại cũng loanh quanh vùng Vĩnh Sơn, Vĩnh Lâm, Vĩnh Thủy của Vĩnh Linh… Nhiều lần lần mò, lân la các nghĩa trang trong vùng nhưng các nghĩa trang thời đó còn sơ sài giữa bãi trống, các mộ chí um tùm cỏ dại. Đài anh hùng, khu nghĩa trang Vĩnh Linh bây giờ trơ trọi một quả đồi có một trụ vuông đắp nổi ngôi sao. Các nghĩa trang ở bờ Nam cũng vậy. Nghĩa trang liệt sĩ Gio Linh, Cam Lộ, Hải Lăng… nghĩa trang san sát bạt ngàn mộ chí phơi nắng phơi mưa...

Những năm sau ngày thống nhất, đời sống cũng như phương tiện đi lại còn rất khó khăn, hơn nữa muốn tìm cũng không biết đi đâu, tìm đâu. Ra quân, sau ba năm vừa đi dạy vừa đi học, tôi trở về công tác tại Phòng Giáo dục huyện, có điều kiện đi lại hơn. Năm 1990, theo cơ quan đi du lịch, tôi đã lên Nghĩa trang Trường Sơn, đến khu vực Nghệ An dò tìm. Thật là đáy bể mò kim. Tìm là tìm thế thôi, tìm trong hi vọng mong manh. Nghĩa trang bạt ngàn bia mộ mờ trong hương khói. Chúng tôi phân công nhau tỏa đi dò từng dãy từng hàng. Tôi đọc đến mờ mắt, cúi đến mỏi lưng. Ai cũng bảo không có tên Vũ Bá Tốp Quỳnh Hồng, Quỳnh Lưu mà chỉ gặp ở đây rất nhiều, người Quỳnh Hưng, Quỳnh Hậu, Quỳnh Đôi, Quỳnh Bá… Và người đủ các huyện khác của Nghệ An. Năm 2005, tôi lên Nghĩa trang Việt Lào ở Anh Sơn dò tìm hú họa, cũng chẳng có tên cậu.

53 năm đã trôi qua. Mới đây trên mạng xã hội lan truyền một tin nhắn địa chỉ phần mộ và danh sách liệt sĩ có tên cậu em tôi ở nghĩa trang huyện Phú Lộc, Huế. Một người trong nhóm kết bạn với dì út cho biết. Trong tấm ảnh chụp danh sách liệt sĩ được chụp gửi trên mạng rõ ràng có tên Vũ Bá Tốp sinh năm 1953, nhập ngũ tháng 1 năm 1972, hi sinh ngày 18 tháng 11 năm 1972, quê quán Quỳnh Hồng, Quỳnh Lưu. Đơn vị hi sinh, K4. Các thông tin về cậu rất trùng khớp. Tôi bảo dì út nhắn tin hỏi lại, tìm hiểu xem tấm hình được chụp ở đâu thì được trả lời, được chụp ở nghĩa trang xã Lộc Kỳ, Phú Lộc. Tin nhắn còn nói rõ ở đó người ta tìm ra ngôi mộ tập thể, ngôi mộ đó đã được dời về nghĩa trang huyện Phú Lộc. Vậy là đã có manh mối. Tôi khấp khởi vào mạng Internet, vào Google tìm danh sách liệt sĩ ở huyện Phú Lộc. Kết quả cho một loạt danh sách liệt sĩ ở nghĩa trang các xã trong huyện Phú Lộc nhưng không có tên Vũ Bá Tốp. Tôi dò tìm số điện thoại các chức danh trong Ủy ban huyện Phú Lộc để nhờ tìm đọc nhưng vẫn không có kết quả. Bụng nghĩ phải đi đến tận nơi mới may ra…

Hăm hở, hi vọng, và được ba bà chị em gái nay đã sang tuổi bảy tám mươi gửi gắm, tối đó tôi cùng người cháu rể bên ngoại vợ bắt xe giường nằm ra đi. Xe tốt và đầy đủ tiện nghi, mỗi người mỗi buồng, lên xe yên chí ngủ. Nhưng tôi không ngủ, chốc chốc kéo rèm ngó ra. Phố đêm loang loáng ánh đèn xanh đỏ tím vàng. Đèn dọc đường cũng sáng trưng. Tôi nhận ra, nào Quán Hành, nào cầu Bến Thủy, rồi Cẩm Xuyên, Kỳ Anh… Những địa danh vang trong tâm thức về những ngày bom đạn. Mà cũng chẳng cần ngó ra nữa, chỉ cần lấy điện thoại vào mục tìm đường sẽ được chỉ dẫn từng lối rẽ, từng chỗ cua… Thời đại công nghệ số hầu như thỏa mãn mọi sự tìm kiếm và học hỏi. Chỉ riêng điều chúng tôi cất công ra đi thế này thì hầu như công nghệ cũng bó tay… Tôi miên man nhiều ý nghĩ, dự tính, thế rồi ngủ quên lúc nào, khi nhà xe đánh thức thì đã tới nơi. Chú cháu tôi xuống xe, lúc này mới ba rưỡi sáng. Thị trấn huyện cuối cùng của Huế ngay bên quốc lộ 1 vẫn chìm trong giấc ngủ. Hai dãy đèn đường soi rõ từng chuyến xe đêm nặng nề vụt qua. Đành phải chờ trời sáng, chú cháu tôi đứng nép bên vệ đường. Rồi cũng có người dậy sớm quét rác, chuẩn bị dọn hàng. Tôi đến hỏi chuyện người đàn ông độ năm sáu chục tuổi gầy gò, ăn vận giản dị. Nghe tôi hỏi đến nghĩa trang liệt sĩ huyện, ông nói, các chú đi tìm hài cốt liệt sĩ phải không? Có vẻ ông đã rất quen cảnh người các nơi tìm về đây dò tìm hài cốt liệt sĩ nên hỏi han rất từ tốn và ân cần. Dạ phải. Tôi nói, Đó, đó, ông đưa tay chỉ, bảy tám chục mét thôi.

Vùng đất này thời chiến tranh biết bao người lính đã đặt chân đến đây. Người bên này nên kia. Người trong huyện trong tỉnh, người Bắc người Nam, và có rất nhiều người đã ngã xuống. Qua mấy chục năm rồi, người đi tìm hài cốt đến đây là rất nhiều. Sau ngày đất nước giải phóng, vùng này còn hoang sơ đồi núi, cỏ cây, sông rạch và đầm phá, nhà cửa thưa thớt lắm. Còn hôm nay, sau nửa thế kỉ rồi. Mọi thứ đã đổi thay, và nhân chứng cũng đã thưa vắng. Chuyện cũ đã trở nên mờ mịt. Nhưng dù sao mục đích chuyến đi của chúng tôi bước đầu đã có phần thuận lợi. Nơi cần tới đã tới, chúng tôi thấy nhẹ nhõm cả người. Lúc này chỉ chờ trời sáng, và cầu mong có tên cậu trong danh sách liệt sĩ ở nghĩa trang này. Mà nghĩa trang thì đang ngay trước mặt.

Chân trời đã ửng sáng trên phá Cầu Hai. Mặt đầm phẳng lặng rải rác mấy chiếc thuyền câu. Xa xa nhà cửa lô xô hiện rõ dần trong ánh bình minh. Chúng tôi tới trước cổng nghĩa trang ngước nhìn lên. Hai trụ chính của cổng sơn xanh. Hàng trăm bậc đá. Dưới đường nhìn lên, lưng chừng nghĩa trang là cụm tượng đài chiến thắng, và sau lưng là bảng ghi danh sách các anh hùng liệt sĩ có phần mộ trong nghĩa trang. Bên phải cụm tượng đài là cờ Tổ quốc, bên trái là cờ Đảng, cả hai lá cờ đều được đắp bằng bê tông to rộng. Và nữa, hai bên là hai lầu bát giác và hai bên nách là hai lối bậc cầu thang đi lên tới các phần mộ chí bên trên phía sau. Tôi chống gối leo lên từng bậc. Đoạn dưới chân 9 bậc, một đoạn nghỉ, tiếp đến là các bậc liên tiếp.

Đứng dưới cụm tượng đài, phía sau là bảng ghi tên các anh hùng liệt sĩ, ngoảnh mặt hướng đông, xa xa là chân trời ửng sáng. Phá Cầu Hai lấp lánh như tấm gương rộng bao la. Thế của nghĩa trang thật đẹp. Trước mặt là biển, sau lưng tựa dãy Trường Sơn, bên trái hướng Tây Nam là đèo Hải Vân “thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Cảnh sắc toàn vùng Lăng Cô đẹp như trong huyền thoại. Hẳn linh hồn các anh hùng liệt sĩ có xương cốt nơi đây cũng được toại nguyện. Và tôi hồi hộp ngước mắt lên bảng ghi tên các anh hùng liệt sĩ.

Danh sách liệt sĩ cả nghìn người được khắc vào một bảng cao dài, ngước nhìn mỏi cổ. Chúng tôi lấy điện thoại chụp toàn bộ và phóng to để đọc. Đọc đến hoa mắt… Danh sách hầu hết là liệt sĩ người trong huyện Phú Lộc. Rất ít liệt sĩ người các tỉnh khác. Cũng có người Hải Phòng, Nghệ An, Thái Nguyên… Người trong huyện Phú Lộc thì ghi rõ ở xã nào, còn người ngoài tỉnh người ta chỉ ghi đến tên tỉnh. Rõ ràng là không có cậu ở đây. Danh sách người ta chụp được có tên cậu ghi rất rõ là Quỳnh Hồng, Quỳnh Lưu.

Chú cháu tôi quay xuống đường. Lúc này hẵng còn sớm, mới hơn 6 giờ. Bây giờ chỉ còn hi vọng vào việc vào Ủy ban huyện nhờ Phòng Thương binh, Xã hội dò tìm. Chưa đến giờ làm việc buổi sáng. Tòa nhà Ủy ban nhân dân huyện Phú Lộc còn đóng im im. Hai chúng tôi tìm chỗ ăn sáng. Quán “Bún Huế” ngay bên đường. Quán cà phê cũng ngay cạnh… Thong thả nhẩn nha ngắm nhìn quang cảnh. Còn nhớ những năm sau giải phóng, vùng đất này nhà cửa còn đen đúa lụp xụp những mái tôn hoen gỉ dột nát. Nhưng vùng này rất sẵn hải sản. Tàu hỏa qua ga Lăng Cô dừng lại, người bán cua ghẹ, tôm mực xúm đen xúm đỏ bám kín cửa toa. Hồi đó đâu đã biết cảnh sắc nơi đây đẹp tuyệt. Biển xanh cát trắng, đỉnh Hải Vân. Con tàu lượn quanh chân đèo. Và phía dưới là biển xanh thăm thẳm chồng chất những tảng đá như đoàn voi tít tận đáy nước sâu… Vùng này giờ đây đẹp lên từng thước đất. Ngoài kia là những khu resort, những biệt thự nghỉ dưỡng… Nơi đây bãi cát trắng phẳng và nước biển trong như pha lê… Một điểm đến của khách du lịch… Nhưng tiếc là chú cháu tôi không đi du lịch mà đi tìm tung tích liệt sĩ.

Cửa cổng trụ sở Ủy ban đã mở, chúng tôi bước vào. Đã 7h30 sáng. Đang bước vào giữa sân thì người bảo vệ đi xe máy đến ngang dừng hỏi. Các bác vô có việc chi. Nghe tôi trình bày, anh ta vui vẻ bảo chúng tôi vào phòng chờ. Ở đây 8 giờ sáng mới làm việc. Người bảo vệ tầm 50 tuổi, dáng thanh thoát, nhanh nhẹn và cởi mở vui vẻ chuyện trò. Sinh ra sau ngày đất nước thống nhất, những chuyện của ngày trước anh bảo không biết. Thế rồi anh chỉ cho chúng tôi phòng cần tìm gặp. Phòng Thương binh, Xã hội huyện làm việc tại căn phòng góc bên phải tòa nhà dù được xây đã mười bốn năm mà vẫn rất sáng sủa và hiện đại. Chúng tôi bước vào đã có một nữ nhân viên có mặt trong phòng. Tôi trình giấy giới thiệu, cô xem xong thì bấm máy gọi cho ai đó… Một lúc thì mọi người cũng lục tục đến. Đang trong thời tinh gọn bộ máy, sáp nhập cấp xã cắt bỏ cấp huyện nhưng hình như điều này không mấy làm phân tâm tới nền nếp, tác phong làm việc của các cán bộ công chức nơi đây. Căn phòng không rộng lắm và tràn ngập ánh sáng. Một bộ bàn ghế thấp tiếp khách. Năm bàn cho năm nhân viên, và trước mặt mỗi người là một máy vi tính. Cô nhân viên phụ trách nhanh chóng mở máy và dò tìm theo yêu cầu của chúng tôi. Cô dò danh sách liệt sĩ có tên trên các nghĩa trang trong huyện. Không có. Nghe tôi trình bày thêm, cô giải thích. Nguyên tắc của việc đưa tên liệt sĩ lên bảng là phải có mộ phần và có tên cụ thể. Trường hợp mộ tập thể cũng như liệt sĩ chưa xác định danh tính, sẽ không có tên.

Cô nhân viên đang giải thích với tôi thì một người đàn ông có dáng đậm người trong áo sơ mi ngắn tay bước vào. Anh chào khách rồi từ tốn ngồi xuống và tự giới thiệu là Dương Đăng Trung, phó phòng Thương binh, Xã hội huyện. Nghe nhân viên giải thích xong, thấy tôi có vẻ nóng ruột, anh bảo tôi hãy bình tĩnh rồi rút máy gọi đi đâu đó. Rồi anh quay ra nói với tôi. Cháu gọi về xã Lộc Kỳ. Cháu nghe tin có ngôi mộ tập thể mới di dời về nghĩa trang huyện. Trong máy vang lên một giọng nữ. Đó là cô cán bộ phụ trách công việc này dưới đó. Cô bảo “có” “có”. “Tốt rồi, em ra đường đón nhé, anh sẽ đưa các bác xuống đó.” Chúng tôi khấp khởi mừng và lên xe riêng của Trung. Ra đường xe xuôi hướng Nam. Đường nhựa phẳng êm, bên trái là đường sắt Bắc – Nam. Và đầm Cầu Hai. Trước mặt là dãy đèo Hải Vân đang mịt mù mây. Phía tay phải vẫn là đặc trưng của vùng này sót lại, đồi cỏ tranh xen cây bụi, vài nhà mái tôn đen xỉn và những lăng mộ rải rác… Xe chạy tầm 3km đã thấy một cô đứng bên phải đường. Trung bảo cô lên xe dẫn đường. Xe rẽ phải vào con đường nhỏ bên phải. Sau một đoạn vòng vèo với những ngôi nhà trệt rải rác, tạm bợ bên những chân đồi cây rừng, cỏ dại, xe dừng lại dưới bóng một cây tràm. Trước mặt là khoảng bê tông và chính giữa có một trụ vuông cao tầm ba mét đắp nổi một ngôi sao và hàng chữ “Tổ quốc ghi công”. Chúng tôi xuống xe. Không có bảng ghi danh sách liệt sĩ. Đây không phải là nghĩa trang. Cô gái cho biết, đây là địa điểm của ngôi mộ tập thể mới được dời về nghĩa trang huyện. Số liệt sĩ này vẫn chưa xác định được tên tuổi. Các anh là chiến sĩ của một đại đội đặc công hi sinh trong một trận đánh trên đèo Phước Tượng, cách đây không xa. Sau trận đánh, lính Mỹ cho xe ủi ủi 44 thi hài các anh vào chung một hố. Mãi năm 1992, người ta mới tình cờ phát hiện nên di dời các anh về đây.

Chúng tôi lập cập xòe lửa đốt hương. Lúc này đang giữa buổi sáng, gió biển lên ràn rạt thổi, hương đốt mãi vẫn chưa được. Một cụ bà từ ngôi nhà nhỏ gần đó lập cập cầm ra chiếc đèn dầu nhỏ bảo mấy chú thắp đèn đã mới đốt được. Hẳn cụ rất quen với việc có nhiều người đến đây viếng liệt sĩ rồi. Nhìn vẻ ân cần và kiên nhẫn ngồi chờ của cụ là đủ biết. Hương cháy, chúng tôi cùng vái lạy rồi cắm hương viếng các anh. Bà cụ ngồi bên mép mảnh sân, dáng còm cõi, ánh mắt mờ đục. Với tuổi này, tôi đoán chừng cụ đã gặp rất nhiều người tới đây thăm viếng. Và hẳn cụ đã mang ra chiếc đèn dầu đen đúa cũ kĩ rất nhiều lần, chứng kiến sự thất vọng của rất nhiều người.

Vậy là cậu em tôi không có ở đây. Hi vọng rồi thất vọng. Giờ biết làm sao? Vậy tấm hình danh sách có tên Vũ Bá Tốp ấy được chụp ở đâu? Dương Đăng Trung cùng các cán bộ nhân viên Phòng Thương binh Xã hội huyện Phú Lộc cũng đã tận tình giúp chúng tôi rồi.

Trên xe quay về, Trung bảo bác kết bạn zalo rồi gửi tấm hình có danh sách kia cho cháu. Trong này cháu sẽ thông báo cho các xã, cho bạn bè xem có ai phát hiện ra không. Nghĩa là nhờ họ lần tìm danh sách liệt sĩ ở nghĩa trang các xã trong huyện. Đành vậy thôi. Tôi nhớ trước khi đi, mấy chị em vợ tôi nói. May ra tìm thấy tên cậu trong đó. Có tên cậu trong nghĩa trang thế cũng tốt lắm rồi. Biết được nơi mà chút xương cốt cậu gửi lại, cho dù tuổi đã già nhưng chị em cũng sẽ cố gắng vào thăm viếng, mà nói với linh hồn cậu ít câu về tình chị em sau hơn năm mươi năm đằng đẵng. Trước đó, tôi đã nghĩ đến việc cho người xác định AND mang vào để xác định, tìm cậu, theo như nhiều hướng dẫn, nhưng thấy rất khó. Nếu có một mộ chung trong đó có xương cốt cậu thì cũng không thể quật mộ chung lên để xác định cho một người. Có tên cậu là được rồi. Bây giờ việc thờ cúng, thăm viếng, ở đâu cũng được nhân dân và chính quyền các địa phương tổ chức trang nghiêm. Linh hồn các liệt sĩ chắc hẳn cũng thanh thản nơi suối vàng. Chỉ thương ông bà, và thương mấy chị em gái của cậu. Ai cũng vậy, lấy chồng, lo việc nhà chồng, nay mái đầu ai cũng đã trắng phau mà lòng vẫn đau đáu về người em hi sinh vì đất nước mà xương cốt vẫn bặt vô tăm tích.

Trời đã sang buổi trưa, trên xe quay về, tôi cứ nghĩ, trong danh sách đã đọc kia có nhiều người cùng huyện Quỳnh Lưu. Chẳng biết những gia đình kia đã lần nào đi tìm như chúng tôi không. Đất nước mình có bao nhiêu nghĩa trang Liệt sĩ. Và trong đó có bao nhiêu mộ phần không có tên người mà chỉ có dòng chữ “Liệt sĩ chưa xác định danh tính” Biết làm sao? Thôi thì thịt xương các chú bác, các anh đã tan vào đất mẹ. Và đất mẹ, Tổ quốc Việt Nam mình giờ đây đã lớn mạnh và rạng rỡ, có thể ngẩng cao đầu với bạn bè. Vậy thì sự hi sinh của các chú bác, các anh quả không uổng và đáng để hậu thế tôn vinh thờ phụng.

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn