Sự kiện & Bình luận

Kí sự Quỳnh Lưu

Trần Ngọc Khánh
Bút ký phóng sự 06:00 | 18/03/2025
Baovannghe.vn - Hồi ấy đang sinh viên, một hôm cô bạn học sau một khóa (hệ giáo viên tiểu học) cao dong dỏng, mắt mơ màng, cười dễ thương, rủ một đoàn khoảng trên chục anh... về nhà em chơi! Nàng là con của một quan chức, nhưng về tới nơi mới biết họ giàu là phải, cả nhà tập trung vào làm kem, bán hạt rau giống, buôn bán xe đạp cũ...
aa

Lần đầu tiên tôi được biết đến Quỳnh Lưu mảnh đất một thời lừng danh của xứ Nghệ là khoảng đầu những năm 90 của thế kỉ trước.

Hồi ấy đang sinh viên, một hôm cô bạn học sau một khóa (hệ giáo viên tiểu học) cao dong dỏng, mắt mơ màng, cười dễ thương, rủ một đoàn khoảng trên chục anh... về nhà em chơi! Nàng là con của một quan chức, nhưng về tới nơi mới biết họ giàu là phải, cả nhà tập trung vào làm kem, bán hạt rau giống, buôn bán xe đạp cũ... làm cật lực (một phẩm chất của dân Quỳnh Lưu). Hình như nàng thích tôi, bởi nửa đêm đang ngủ tôi bị gọi dậy đi... ăn kem. Tôi cứ mắt nhắm mắt mở khen kem ngon, còn nàng cứ nhìn tôi cười rất bao dung, đến lạ. Lúc trở lại giường ngủ, thằng bạn đi cùng dựng tôi dậy hỏi: “Ông có thích... nó không?” Tôi bảo: “Chỉ là bạn bè thôi! Mà sao mày hỏi thế?” Nó trả lời: “Thì để phần cho tao.”

Kí sự Quỳnh Lưu
Bãi biển Quỳnh Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Ảnh: Hồ Đình Chiến

Khoảng hơn một năm sau cô em gái của nàng gặp tôi rồi khóc òa lên… (vì lúc này Quỳnh Lưu thiếu giáo viên, có số sinh viên chỉ học một năm rồi ra dạy). Tai tôi ù đi vì kinh ngạc, cô em đầy khẩu khí chỉ mặt tôi tiên đoán: “Đời anh rồi khổ thôi... tội người ta mời đến ăn cỗ mà chỉ dám ngồi nhìn, rồi hết nạc vạc xương thôi...!”

Lần thứ hai tôi đến huyện Quỳnh Lưu lại là để coi thi tốt nghiệp bậc phổ thông trung học cơ sở; tại điểm thi Quỳnh Giang. Trong hội đồng thi có người đi xe đạp gần 80km (cả đi lẫn về) tài thật, sau đó lại đi coi thi ở Quỳnh Dị, thủ phủ thuốc lào của miền Trung, thuốc lào ở đây ngon, vì hình như ngoài chất đất trời phú còn có món xả mắm đưa dưới bể lên bón vào gốc, bắn một khói, say đứ đừ, ngả mình trên thảm cỏ ngắm trời chiều, rồi dậy chiêu một ngụm chè xanh mới thấy mấy thằng hút thuốc lào... bổ phổi đến lạ. Sau này bỏ thuốc đọc tài liệu thấy mới sợ, cái phổi nó sạch vậy mà đưa khói vào khác gì cái nhà bếp ngày càng đầy bồ hóng. Cái lần ấy, có vài ba kỉ niệm nhớ đời, được một phụ huynh chiêu đãi bia, uống đến mức vịn bờ rào đi!

Đến ngày coi thi, bỗng phát hiện có kẻ lẫn vào phòng thi, vị cảm tử quân này bị ông phó chủ tịch hội đồng coi thi đạp cho một phát vào mông vì cái tội lén vào ăn cắp đề, nhưng trong cái đạp ấy như giấu một thông điệp “chạy cho nhanh, kẻo công an đến thì khốn...”, gã cảm tử, cảm động quá lao như tên bắn lên một quãng bờ tường đã yếu đến mức mà khi gã va vào thì bờ tường ấy ngã một cái rầm... sát đất, hàng trăm phụ huynh đi dự buổi đại thí lo thắt ruột, và họ ào đến bưng gã người hùng ấy lên ngồi gần cái đài tưởng niệm gần đó. Sau kì thi, chúng tôi xuống đền Cờn, ngôi đền nổi tiếng từng được vua Lê Thánh Tông vào tế lễ trong một lần chinh phạt phương Nam, đến vùng biển này được thần linh báo mộng. Cụ Nguyễn Du khi qua vùng này, nhìn về phía đền cũng đã làm thơ cảm tác, khúc sông chảy qua đền uốn một vòng cong quá đẹp, nước xanh như nước sông Gianh ở Quảng Bình. Sau khi viếng đền, lại ra tiếp một ngôi đền nữa sát biển, đá núi lô xô, núi “Bổng nhoài ra biển”, “Như không thể nén kìm khao khát/ Chợt run lên trước cơ hội cuối cùng...” Thơ ai thế nhỉ! (1) Núi ra được đến đây lại bị cạo trọc, chỉ còn đá, đá khổng lồ, đá bé tí. Tôi đứng trên hòn đá “Mặt trăng”, một mình lặng ngắm thinh không và sóng gió!

Ít lâu sau tôi lại đi coi thi cho một trường cấp III, đâu ở Quỳnh Châu thì phải, gần đó có một ngọn núi trong lòng ẩn một khối đá vôi khổng lồ, bị một con suối thúc mạnh vào, tạo thành một hệ thống hang động độc đáo, động Tân Sơn - “Thiên đường trong lòng đất”. Xe đang đi trên sườn đồi bỗng khựng lại, một dòng suối sâu hút, rợn ngợp hiện ra, bỏ xe cả đoàn giáo viên sau kì coi thi lội sâu vào lòng đất, sức xâm thực và hiện tượng đứt gãy đột ngột về vật lí đã tạo ra một cung điện đá vôi ngầm trong lòng đất, cả những cái hang sâu chứa được cả trăm con người, nhũ đá, hơi nước mát lạnh, những cánh dơi bay, rễ cây xòa ra như ngón tay khổng lồ ngàn năm bấu vào vách đá, nước khe lạnh như kem, đá rơi mát rợn bàn chân, giữa ngày hè mà nhiệt độ vào đây hạ thấp đến mát lạnh. Nhưng cứ hình dung mùa mưa mà xem, cả dòng nước như con trăn đất khổng lồ lao vào vách núi, ầm vang sôi réo, sủi bọt, rồi từ óc núi, ruột núi, lao bắn ra những dòng thác liên tiếp như những đàn trâu bạc khổng lồ văng ra tới tấp, trong tiếng réo ầm ầm của thiên nhiên, động Tân Sơn man dại và trữ tình, hung bạo và tĩnh lặng, một sự đối lập đến khập khiễng. Mà sao có lần phó giáo sư, tiến sĩ Đào Khang, nguyên Chủ nhiệm Khoa Địa lí - Đại học Vinh có hỏi tôi là đi nhiều vậy có nhớ nơi nào sức xâm thực của nước tạo ra những vết sụt lở lớn để ông cho học sinh chụp ảnh minh họa, tôi lại quên mất chỗ này. Đây mà làm nơi du lịch mùa hè thì thật tuyệt, dân quanh vùng hái ra bạc, một kho bạc giấu ngầm trong lòng đất tưởng như chỉ nguyên sơ đồi vắng. Đó mới gọi là “ngọc trong đá” chỉ cần đập vỡ ra là có của thêm mà.

Kí sự Quỳnh Lưu
Cánh đồng muối ở Quỳnh Thuận, huyện Quỳnh Lưu. Ảnh: Nhật Thanh. Nguồn: baonghean

Chuyện đời cũng lạ thế quái nào mà tôi lại trở thành rể đất Quỳnh Lưu! Khi rảo bước trên ngõ xóm làng Bèo (Quỳnh Hậu), tôi đoán đây là một làng cổ, ông Thu và ông Đạt hai ông bác họ bên vợ bảo sao anh biết (tôi chỉ những bờ tường xây đá, xây sò bạc phếch và nhẵn thín màu thời gian), họ bảo tôi nhận diện khá, và tôi bỗng nhớ đến Phan Bá Hàm nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, ngoài tuổi 80 mà ẵm luôn mấy giải thưởng của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam về các công trình nghiên cứu làng xã, ông bảo hồi dạy học ở Quỳnh Hậu, hỏi các cụ tại sao đường làng quanh co thế, mấy bậc túc nho, nói làng có nhiều người đậu đạt, khi rước về đi quanh co rồng rắn, đứng trên cao nhìn xuống mới đẹp, nên đường làng phải... quanh co.

Có lẽ đó là giai thoại, sự thực thì làng cũng ở gần với đất Quỳnh Đôi (một làng khoa bảng nổi tiếng) nên chắc ảnh hưởng sinh khí khá mạnh. Làng ngày xưa có ngọn núi đá khá nổi tiếng, nghe đâu từng được các bậc đại khoa đề thơ, rồi sau này thấy Hồ Hữu Nại, Biển Hồ, Phan Văn Từ cũng có thơ về ngọn núi này thì phải. Nhưng giờ thì nạn “mần thịt núi đá” đã làm ngọn núi biến mất rồi. Con kênh đầy ắp nước, con đê Nông Giang chảy qua định làm một vẻ đẹp non bộ, trên núi dưới sông bỗng trở nên bơ vơ, tủi và thẹn biết nhường nào! Con đê Nông Giang này theo hồi kí của Hồ Anh Dũng thì khi cụ Hồ Tùng Mậu bị bom ở Thanh Hóa người ta đưa cụ về đây và người nhà ở Quỳnh Đôi lên nhận cụ về, nghe nói có 3 cụ bà khóc lăn ra (3 cụ như là đại diện của 3 đời liệt sĩ). Vị Tổng thanh tra Chính phủ ra đi đột ngột quá, nghe đâu cụ Hồ đau xót lắm, và con cháu cụ sau này trở thành nổi tiếng cả. Trong đó có Hồ Đức Việt nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương... Và ông Hồ Đức Việt lại từng là học trò cụ Phan Bá Hàm, cụ Hàm kể lại hồi đó Hồ Đức Việt học giỏi có tiếng, trong lớp còn có một trò nữa tên là Hồ Sự Thật từng là học sinh giỏi văn toàn miền Bắc, nhưng sau lại trượt thi tốt nghiệp cấp III vì… môn văn. Ông Thật trở thành một hiện tượng của dân kẻ Bèo. Khi cụ Hàm hỏi sao em tên là Hồ Đức Thật lại đổi thành Hồ Sự Thật, “Dạ vì ngoài bắc có nhà xuất bản sự thật nên em muốn sống đúng như vậy”. Và muốn sống thật nên ông hỏng môn văn vì không thích... kiểu đề như vậy. Ông không học môn văn nữa mà thành kĩ sư giao thông, lại phải làm bên ngành lâm nghiệp. Cũng vì thẳng tính mà ông đành về 176 và làm thơ. Ông giao du với cả Lê Thái Sơn, Nguyễn Trọng Tạo... làm thơ rất nhiều khi trên vỏ bao thuốc lá, trên bao bì xi măng, trên giấy nháp của con... Nhưng không bao giờ gửi in báo... Bà vợ là một dược sĩ cao cấp, cứ phải đi lượm lặt những bài thơ ấy bỏ vào tủ ... Sau này ông mất bà cho tôi đọc tập thơ ấy (thực ra có đến mấy tập bản thảo), một nỗi buồn dâng lên vô tận, trong thơ Hồ Sự Thật cái cảm giác “đói” vâng. Cảm giác lo cho vợ cho con trước những thiếu thốn của đời trở thành một nỗi ám ảnh. Điều này trong văn Nam Cao, Kim Lân hiện lên rất rõ, nhưng thơ Hồ Sự Thật là giai đoạn sau 75-90, giai đoạn mì hột, tem phiếu... hiện lên thật day dứt và hình như ông linh cảm đến một nỗi bất hạnh nào đó đang chờ đón mình: “Cá đi tăm còn nổi/ Người xa không bóng hình/ Mây bốn mùa đỉnh núi/ Cánh bèo nhẹ tênh tênh”. Bài này tôi mạn phép chép lại, gửi báo Nghệ An cuối tuần, nhà thơ Nguyễn Văn Hùng cho in ngay và cũng chính ông mới có cảm nhận khác lạ về Đền Cuông và bi kịch Mỵ Châu Trọng Thủy: “Đền Cuông ngoảnh mặt về phía mặt trời lặn/ Bóng chiều tà thấp thoáng cửa Tam Quan/ Từ phương đông vời vợi mảnh trăng lên/ Trăng lặng lẽ nghiêng mình soi giếng ngọc/ Nàng Mỵ Châu ngồi khóc mấy nghìn năm...”, ngày nay con cháu ông Thật ở làng Bèo, vẫn trân trọng nhiều giai thoại về ông, dù ông đã đi xa đến 15 năm rồi.

Cũng ở làng Bèo ấy, có một “sĩ phu” thời hiện đại nữa phải nhắc đến tiến sĩ toán lí Trần Đức Mai người từng du học ở Tiệp Khắc về, nhà nghèo, cha mất sớm, cố học thành tài, ông là bạn với nhà toán học nổi tiếng Văn Như Cương. Ở Nghệ An có 2 vị “đốc học” được nhiều người truyền tụng, cụ Nguyễn Tài Đại (ông đồ Nghệ) với tài ứng tác, kể cả khi giáo viên ngồi hút thuốc lào cụ cũng có thơ: “Điếu tịt bay ơi điếu tịt rồi/ Đừng trương gân cổ kéo hoài hơi...” Cụ Đại tài hoa, dân dã, chính trực từng làm thư kí cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp trước khi về làm Trưởng ty Giáo dục Nghệ An. Và cụ “Tây học” Trần Đức Mai, cụ Mai vốn dòng dõi của cụ Trần Phượng Lãm (tức Trần Đức Độ) một danh sĩ đủ cả đức lẫn tài, nhưng đường hoan lộ vô cùng lận đận, cụ đành vui với nghề dạy học và bầu bạn với dân đen, nhưng danh tiếng bậc ẩn sĩ này nhiều bậc túc nho nghe tiếng vẫn ngả mũ kính chào. Thì nay lại thêm cụ Mai, cụ làm quan nhưng con cháu thì đừng có hòng mà nghĩ đến đoạn “một người làm quan cả họ được nhờ”. Tất cả vì công bằng, ai cũng như ai, thành ra người ta oán cụ lắm. Nghe nói có lần cụ đi công tác xa, ở nhà họ định đảo chính nhưng nghe đâu Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình đã lên tiếng bảo vệ ông rằng: “Anh Mai không làm trưởng tí thì ra đây làm... thứ trưởng.” Rồi cụ Đào Lương Thiện một nhà giáo lão thành có kể rằng có lần đi thị sát thi cử, làm việc khuya về đến nhà đã gần 4 giờ sáng, không dám làm phiền đến vợ con, cụ trải vội tấm ni lông ra thềm, ngả lưng vài tiếng đồng hồ chờ trời sáng rồi lên đường đi công tác luôn, và nghe đâu cũng chính cụ cho lệnh nổi trống hồi kì thi tốt nghiệp... khi chính người nhà của mình đang làm chủ tịch hội đồng coi thi vì vi phạm vào quy chế. Chuyện này có lần tôi định hỏi nhà giáo lão thành Trần Đức Sinh người có nhiều năm lăn lộn với sử học của địa phương và nhiều năm gắn bó với Trần Đức Mai nhưng tôi chả dám hỏi, cụ trầm tĩnh, từ tốn, và lại rất hay hài hước, bảo cháu đi mua mì tôm, thì cứ đến quán bà nọ kêu: “Bán... bán... mồm ti, mồm ti...” Bà chủ quán phát cáu: “Mua mì tôm hả, thì đây mà lần sau mi cứ nói cho rõ, tao tên là con Ty đây, mồm tao... bị cái chi hả?” Con trai cụ Trần Đức Thịnh giáo viên cấp 3 trường huyện cũng hài hước vậy, có lần ông bảo với tôi là sẽ làm một cái diễn văn kỉ niệm 50 xóm Cửa Lõm... Rồi ông đọc một đoạn, khiến lũ chúng tôi bò ra cười. Gia đình nhà giáo Trần Đức Sinh rời Quỳnh Hậu lên Quỳnh Hoa ở là vì vợ cụ, bà Thuật là một nữ hộ sinh tài hoa có tiếng, dân Quỳnh Hoa cảm cái đức ấy cắt luôn đất khu vực làm trạm xá mời gia đình lên cư trú, góp phần tạo thành xóm Cửa Lõm vừa nói trên ...

Quỳnh Hoa mảnh đất địa linh nơi ẩn chứa trong lòng bao nhiêu huyền thoại, ở đây còn có 2 ngọn đồi đầy vỏ sò biển đột ngột nổi lên giữa vùng ruộng đồng bằng phẳng, dù giải thích thế nào đi nữa cũng cứ thấy kì lạ, sao lại vỏ sò miền biển lại nổi lên giữa đồng bằng. Trong làng lại chứa cả đồ đồng, đồ đá thời tiền sử giới khảo cổ học đã về đây nghiên cứu, công bố và ngay các nhà khoa học cũng cứ ngạc nhiên. Rồi đến cả chuyện cách đây mấy năm người ta bắt được một con cá lạ... đua nhau đấu giá rồi bán thật nhanh. Hóa ra một con cá chình, cá chình mà lại có ở đây cũng thật lạ. Rồi một lần tôi gặp một bà giáo, bà ấy bảo nhà đào được mấy cái đồ đồng rất cổ như thế... như thế, tôi đến xem kinh ngạc, đưa tin... báo chí đổ về. Sau bà giáo ấy gặp lại tôi mắng xồn xồn là tại cái mặt anh nên chỉ tốn nác rác nhà, đồ cổ với đồ kiếc, chả được xu sứt nào! Rồi dạo ấy trên tivi lại đang đồn thổi chuyện cây chuối có mấy trăm nải, thì ông giáo Thịnh bảo chuyện vặt đi đến đây... có ngay. Tôi nửa tin nửa ngờ hóa ra cách đó một đoạn đường có một gia đình có giống chuối ấy thật, bà chủ nhà xin nó ở Quỳnh Hồng đem về trồng. Sau thấy chuối ra nhiều nải quá cho là điềm gở đem chặt gốc quẳng đi, sau nó lại lên cây, ra quả bà sợ quá lấy rơm rạ phủ kín lại, khi chúng tôi đến bươi rơm rạ ra thì nó đã ra đến hơn cả trăm nải...

Chưa biết ở Quỳnh Hoa còn có một ngôi đền cổ, xung quanh có những giếng nước rất cạn nhưng trong veo uống mát rợn da, rợn thịt và những cây thị khổng lồ vẫn trầm ngâm đứng cạnh giếng hàng trăm năm nay. Đặc biệt gốc thị sau ngôi đền cổ khi tôi đến cụ thị đã già lắm rồi, cụ nghiêng hẳn một bên. Và quả trời ơi, quả nhiều đến vàng ươm một vùng, xa trông như một đám mây vàng rà xuống. Thị thơm đến từng gốc cây ngọn cỏ.

Đất Quỳnh Hoa quê của tướng Nam Phong, một huyền thoại nổi tiếng, tướng quân nghe đâu hiện nay vẫn thường gửi tiền về cho xã làm quỹ khuyến học cho các cháu, rất đều đặn... Từ thị trấn Giát nhìn lên, núi non Quỳnh Hoa chập chùng như đàn ngựa chạy hình vòng cung, nghe nói nếu đủ cả trăm ngọn thì thành kinh đô từ lâu rồi... Nhìn gần mấy ngọn đồi rất giống đàn rùa bò về phía đền Quỳnh Hoa. Tiếc rằng mấy cụ rùa núi này đang bị đào phá, bị lấy đất gần hết. Ngày trước gánh củi từ Quỳnh Hoa đến chợ Quỳnh Hậu bán, ăn một miếng chả lam Kẻ Bèo mát hết cả lòng hoặc xuôi đoạn nửa đến Quỳnh Đôi xem cảnh vật...

Đất Quỳnh Lưu mãi vẫn còn là một bí ẩn, kể cả từ thời “Bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm” của cụ Hoàng Trung Thông cho đến chuyện thả hươu về rừng của chủ doanh nghiệp trồng rừng Lê Duy Nguyên mãi mãi vẫn là những ẩn ý của thời cuộc và văn hóa.

Tôi chỉ dám ghi chép lại một vài suy nghĩ liên quan đến mảnh đất này, và tôi dám chắc rằng những chuyện tôi ghi chép trên đây phần nhiều chỉ là giai thoại, hoặc nó thật như giai thoại. Nó cũng chỉ dám góp phần tôn thêm ý chí, tinh hoa, nghị lực và nội lực văn hóa của vùng đất này, một vùng đất mà con người dù trong hoàn cảnh nào, cũng muốn vươn lên, muốn ngang tầm thời đại, muốn góp một nét gì đó cho cuộc đời, cho đất nước và cho cả mai sau!

Khởi công dựng vở tuồng “Dấu thiêng Hà Nội”

Khởi công dựng vở tuồng “Dấu thiêng Hà Nội”

Baovannghe.vn - Ngày 4/6, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã cho khởi công dàn dựng vở tuồng hiện đại Dấu thiêng Hà Nội còn gọi là Cho những gì còn mãi của tác giả Lê Công Phượng, đạo diễn: NSND Lê Tiến Thọ.
Bộ VHTT&DL: Công bố thêm 11 Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia

Bộ VHTT&DL: Công bố thêm 11 Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia

Baovannghe.vn - Mới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành các quyết định về việc công bố Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Bà kể chuyện quê - Thơ Mai Hoàng Hanh

Bà kể chuyện quê - Thơ Mai Hoàng Hanh

Baovannghe.vn- Chiều nay bà kể chuyện quê/ Khói giăng chái bếp, nắng về lao xao
Đọc truyện: Đắng lình - Truyện ngắn của Nông Văn Kim

Đọc truyện: Đắng lình - Truyện ngắn của Nông Văn Kim

Baovannghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương
Từ “Chất địa phương” nghĩ về bản sắc trong Mỹ thuật Việt

Từ “Chất địa phương” nghĩ về bản sắc trong Mỹ thuật Việt

Baovannghe.vn - Trong quá trình phát triển nghệ thuật, bản sắc văn hóa luôn là yếu tố then chốt định hình tính độc đáo của một nền mỹ thuật.