Cái thời sống trong quay quắt của nạn đói tôi thường về quê ngoại tá túc nhiều hơn vì nơi đó có nhiều khoai lang đỡ đần trong những tháng ngày giáp hạt. Miền nắng gió này đã ban phước cho quê tôi một loại cây không biết đua sắc, có hoa không bao giờ kết trái, chỉ biết thích nghi với nắng mưa, sương gió, để kết thành những chùm củ đủ hình hài
Cá Nhượng Bạn, khoai Mục Bài
Khuyên ai về huyện Cẩm khỏi một mai
tiếc thầm
Quê nội tôi ở Hội Tiến, quê ngoại tôi ở Mục Bài, hai thôn khác huyện của tỉnh Hà Tĩnh nhưng chỉ cách nhau một bãi cát. Cái thời sống trong quay quắt của nạn đói tôi thường về quê ngoại tá túc nhiều hơn vì nơi đó có nhiều khoai lang đỡ đần trong những tháng ngày giáp hạt. Miền nắng gió này đã ban phước cho quê tôi một loại cây không biết đua sắc, có hoa không bao giờ kết trái, chỉ biết thích nghi với nắng mưa, sương gió, để kết thành những chùm củ đủ hình hài, âm thầm lặng lẽ lớn lên dưới lòng đất mà người Việt mình quen gọi là “củ sâm Nam”, còn người Nhật họ gọi là “sâm đất” - đó là cây khoai lang. Một loài cây mà giữa cồn hoang hay cát bạc nhiều loài thân bần rễ nọc đã nghẻo đầu chết lụy thì cây khoai lang vẫn lòa xòa, thân thiện che chở cho con người vượt qua những tháng năm bĩ cực.
![]() |
| Trồng khoai lang ở Hà Tĩnh. Ảnh: BÁO HÀ TĨNH |
Cây khoai lang ở những miền khác thường chỉ trồng tháng hai, tháng ba rồi thu hoạch vào tháng sáu, tháng bảy. Còn khoai ở xứ Mục Bài và Hội Tiến trồng được ba mùa xuân, hạ, thu (trừ ba tháng mùa đông giá rét, khoai khó bén rễ nên mọi người không trồng). Điều đáng quý là cùng một giống đó nhưng khoai ở Mục Bài thơm bùi và lắm bột lại cho năng suất cao hơn các vùng miền.
Ngày trồng khoai quê tôi thật đẹp và rộn ràng như ngày hội. Già trẻ, lớn bé đều nhộn nhịp ra đồng. Cày xong, người lớn đánh luống, rạch rãnh. Phụ nữ trẻ em bón phân và rải dây (mồi) hoặc tủ lá chuối, rơm rạ để chống xói đề phòng khi gặp mưa rào. Chỉ vài tuần là luống nào luống nấy tốt um tùm, ngọn dài tua tủa, lá non mơn mởn xòe ra như bàn tay con trẻ đón giọt nắng đầu mùa. Chập choạng chiều chim ri và chiền chiện chí chóe giành nhau tìm những khóm khoai xanh rậm nhất để làm nơi lót tổ, đẻ trứng. Ôi! Thật nhớ thương một loài chim nhỏ như quả cau điếc, từng được ví là bản nhạc không lời của đồng quê, nay chỉ còn trong kí ức.
Thời đó bọn tôi đi học về thường rủ nhau ra đồng hái ngọn khoai về rửa sạch, thái nhỏ nấu với nước dam (cua đồng), nhà nào đông con cho thêm vài vốc tấm thì sánh sệt hơn. Thực ra canh khoai trộn tấm ăn vào để lấp đầy bụng, đỡ rỗng ruột chứ tấm không hề tạo ra gia vị gì cho nồi canh. Riêng nước cua đồng rất hợp với rau khoai. Nấu sôi chừng năm phút là mùi thơm ngào ngạt bay vào trong không gian làm bao người nức mũi. Mỗi lần múc ra tô, ngoại thôi thường nói “trời cho đấy”. Hương vị ấy không chỉ là mùi của một món ăn đơn thuần mà còn mùi của kí ức, hiện hữu của những điều dung dị trong tình yêu thương đầm ấm của gia đình. Thật đáng nâng niu và trân quý biết nhường nào. Mãi đến hôm nay khách đến những nhà hàng sang trọng mới được mời để cùng thưởng thức món canh này. Có hôm tôi đi nhà hàng với người bạn, khi thấy nhân viên bê ra một tô canh rau lang nấu nước dam, anh bạn phổng mũi như ngửi thấy mùi của kí ức liền thốt lên “giờ mà có ít tấm, chêm vô thì giống ngày trước vô cùng”. Đó là, bạn hồi tưởng thời củi quế cơm châu, chứ hiện nay thì gạo hạt nào hạt nấy suôn đuồn đuột như tằm no dâu, đào đâu ra tấm để khơi dậy buổi hàn vi cơ cực ấy.
![]() |
| Khoai deo |
Khi khoai được gần ba tháng, là chỗ chớm gốc xuất hiện những đường nứt nẻ, đích thị vài ngày sau lộ ra một củ khoai, ưỡn tấm lưng gù trồi lên khỏi mặt đất, như khoe mình trước vẻ đẹp của trần gian sau những ngày lặng lẽ âm thầm dưới lòng đất. Để tránh mắt mũi của loài gặm nhấm rình mò ban đêm, tôi vác cuốc ra đồng theo ngoại, thăm dò xem chỗ nào có củ trồi ra thì vốc đất phủ kín, dặt cẩn thận. Thế là lũ chuyên trộm vặt hết đường rình mò. Nhưng cũng không thiếu những con chuột mạ khôn thành tinh, chúng đào hang sẵn cạnh ổ khoai rồi làm tổ và sinh ra cả đàn con lúc nhúc trong ấy. Đến ngày dỡ khoai thấy động thì bỏ lại con chạy bạt mạng chẳng thèm đoái hoài.
Ngày trồng khoai vui bao nhiêu thì dịp dỡ khoai lại vất vả bấy nhiêu. Để tránh nắng, cả nhà phải ra đồng lúc ba, bốn giờ sáng. Nhiều nhà còn mang theo cả trâu để cày phá vạc vồng ra. Trẻ con đi theo nhặt khoai sắp vào rổ để người lớn gánh về nhà. Vì lúc đi dỡ khoai do tất bật chưa kịp ăn, nên về đến nhà, ngoại chọn những củ khoai có lớp da trơn tru, mịn màng, không tì vết, bỏ nồi luộc. Luộc khoai lửa phải táp ngọn, không đỏ liu riu. Và dứt khoát phải kín hơi. Mẹ tôi đang loay hoay đâu đó lại chạy vào cầm hòn gạch đè lên vung. Chừng 15 phút tôi mở ra xem đã chín chưa. Ngoại tôi dùng đũa xiên thử rồi nhấc bổng lên. Kiểm tra khoai dứt khoát phải xỉa xiên, chứ xọc đứng thì thánh cũng không nhấc lên được. Tập quán này đã trở thành ngôn ngữ nhân gian với cụm từ nghe thật bóng bẩy “Nắng xiên khoai” là vậy.
Cũng cái đáp án đó, nhưng cách đây hơn 30 năm tôi gặp người viết sử cự phách ở thành phố Hà Tĩnh V. H. H, ông lại giải thích: “Mỗi khi thái khoai để làm lương thực dự trữ mùa giáp hạt người ta bê ra sân phơi. Phơi khoai mà đổ ập cả rổ xuống rồi lấy tay dạt ra thì thanh nào thanh nấy đen sì do lấm bụi nên mọi người đi vòng ngoài sân vất khoai xuống. Bàn tay người nông dân tưởng chừng thô tháp, vậy mà sau mấy mùa phơi khoai, tay họ dẻo quẹo và điêu luyện làm sao. Những miếng khoai hình elip liệng bay trong không gian trước khi tiếp mặt sân. Nhìn tay người vất khoai mà ngỡ như họ đang vất những tia nắng chiều xuống mặt sân vậy. Đến chiều mọi người vào nhà, nghỉ chờ khoai khô để đưa vào, lại thấy những vòng tròn elip từ ánh mặt trời xiên qua rèm thưa in bóng lên thềm – giống như những mảnh khoai hình elip ngoài sân. Cho nên “Nắng xiên khoai” đã bắt nguồn từ đó.” Cái nắng thật đẹp, thật hiền chan chứa bao hàm ý của một vùng quê ấm áp yên bình.
Tôi đang xiên từng củ, đặt cẩn thận ra rổ, chưa kịp ăn thì nghe tiếng hộc thái khoai vang lên cành cạch! Cành cạch! Đầu làng. (Hộc thái khoai là một cái ghế được gắn cái lưỡi cắt nằm phía dưới. Trên có bộ khung hãm. Trong khung có cái hộc ba lỗ chứa được chừng năm, sáu chục củ). Cứ vậy hai người hai đầu, kẻ kéo người đẩy. Hộc có cái thái một giờ được ba bốn chục rổ. Những cái hộc cắt nhanh và cho ra thanh đẹp được nhiều người chú ý để mượn. Tôi nhớ có ông Tuân ở vùng Tân Yên, Nhượng Bạn hồi đó thường ra nhà ngoại tôi đặt mượn trước hai, ba ngày. Thời đó cả thôn Phú Hòa chỉ có một hoặc hai cái sân hàu chứ không có sân láng xi măng hoặc lát hoa như bây giờ. Khoai thái xong lại tranh thủ gánh ra sân hợp tác để phơi. Rồi cũng có những cuộc cãi vã om sòm bởi chuyện tranh sân lấn chỗ. Nhưng đó chỉ là cáu bẳn trong cơn mệt nhọc, rồi tình cảm của người dân quê lại quây quần bên nhau, như vòng mây nuộc lạt nơi vành nia miệng thúng.
Khoai được nắng, trắng tinh như ngà, muốn thơm giòn phải bỏ chum bịt kín miệng bằng ni lông. Đến mùa mưa bão bó gối nhìn ra, cứ năm, sáu phần khoai một phần gạo bỏ nồi. Bữa ăn này thường dành cho bận chính (trưa và tối), còn bữa sáng chỉ dùng khoai xéo. Mà ăn khoai xéo với cà trường hay cá trích thì ở tuổi học cấp 3 như tôi hồi đó không bao giờ biết no. Loại khoai xéo này nén chặt, kèm theo dăm quả cà trường, vài con cá trích, vai khoác theo cái bình toong nước chè chát thì thôi rồi, đi ba đèo bảy núi cũng không lo đói, đây thường là thực đơn kẻ sơn tràng kiếm gỗ về làm nhà của dân miền xuôi. Ngoài ra khoai còn có thể nghiền ra tinh bột, hoặc làm bánh tu hú thì ăn ngon vô cùng. Những tưởng “bở như khoai” nhưng kì thực không phải như vậy, khoai phơi luổi uổi, gặp mưa thì chỉ có vất chứ để chuầy trong nhà thì rước ruồi nhặng bay về. Ruồi là loại tinh khôn khẩu vị, thế gian ăn gì mà qua được nó. Nói vậy để biết khoai giàu hay nghèo dinh dưỡng. Nói đến khoai thì không thể không nhắc đến khoai deo. Ngày trước thái khoai deo thường là giải pháp tình thế để giải quyết ứ đọng khi luộc ra ăn không hết. Khoai này thái thủ công bằng tay. Thái xong bày ra cẩn thận lên nia, lên sàng, phơi ở giàn cao nhằm tránh ruồi muỗi và bụi bặm bay vào… Nói chung khoai này phải sạch tuyệt đối. Phơi khoảng 5 nắng là bỏ bì ni lông. Sau này thấy thuận lợi nhiều gia đình làm khoai deo xem như một món ăn dân dã và thay ăn sáng. Làm khoai deo phải chọn những củ trong ngần, không xơ, không bột vậy nó mới deo. Loại này ăn dẻo như mạch nha, càng nhai càng ngọt, thơm hơn cả kẹo bạc hà. Chiều chăn trâu, trộm mẹ được vài vốc ra đồng vừa nhai vừa nhìn trời ngó đất, vừa nghe diều sáo thì quên hết tất cả. Khoai này ăn xong phủi miệng, uống nước lã chẳng bao giờ đau bụng, thế mới hay. Thời đó đi học, nhiều khi chậm giờ vội vốc một nắm bỏ túi quần vừa ăn vừa chạy… xui xẻo gặp thằng bạn chìa tay ra. Phải chia sẻ chứ nuốt một mình sao trôi. Rồi chuyện “ăn khoai lang trong màn” “cá gộ” “đèn đom đóm” là những thành ngữ quen thuộc làm bạc mặt bao sĩ tử trên đường lặn lội công danh. Hiện nay, khoai deo đã thực sự lên ngôi. Ở Quảng Bình có huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh đã có những cá nhân, công ty sản xuất khoai deo với sản lượng hàng trăm tấn. Khoai deo Quảng Bình cũng như thương hiệu cu đơ Hà Tĩnh, sản phẩm không những tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu sang các nước Đông Âu và Úc. Khoai đã chế biến thành nhiều sản phẩm giá trị khắp thế giới, ngọn khoai xào tỏi là món ưa chuộng của dân thị thành mà mọi bộ phận của cây khoai đã được người nông dân tận dụng hết thảy.
Lại có một loại khoai dỡ ngoài đồng về thì được chọn, như chọn hoa hậu, tỷ lệ khoảng 10 chọi 1 - đó là lựa khoai tươi cất ăn dần. Những củ khoai này da trơn, mình mẩy thon dài không tì vết. Sau khi được “tuyển thẳng” thì lùa vào dưới gầm giường, tanh bành hình hài ra đó. Không biết có phải tránh được kiếp xẻ thân khi bị đưa vào miệng hộc hay không mà mới vô gầm giường được dăm ngày là nảy mầm tua tủa. Có những ngọn khoai còn với lên tận liếp giường rồi vươn ra ngoằn ngoèo như hi vọng sẽ tìm thấy một tia sáng ở ngóc ngách nào đó. Khoai để lâu ăn càng ngon. Khi nấu chín không nở bung phấn trắng như khoai mới dỡ mà chuyển sang màu hổ phách trong suốt. Bóc lớp ngoài rồi cắn một miếng là cảm nhận vị ngọt, một vị ngọt không sắc mà sâu lắng vô cùng, cứ man mát đầu lưỡi, làm ấm cả tâm can. Ngoại tôi ăn khoai này thường ngưng lại một chốc như để tận hưởng cái hương vị đậm đà của quê hương. Rồi bà kể chuyện với tôi: Trước đây có bà Hải, người ở thôn Song Hải, Nhượng Bạn chồng chết sớm bà tảo tần nuôi con bằng nghề bán cá chạy. Vì nhớ và thèm khoai Mục Bài nên giữa trời tháng sáu bà gánh cá đi đổi, chẳng may gặp nắng ngất xỉu giữa bãi cát. Thật may bà gặp ông Sưởng (về sau này mọi người quen gọi là ông cu Sướng) đi đưa khoai và nước chè cho vợ ngoài đồng gặp bà Hải sõng soài, ông bỏ lại việc nhà sang một bên rồi cấp cứu bằng khoai và nước chè mà người đàn bà tốt số này đã qua kiếp nạn. Lại nói sau khi vợ ông Sưởng qua đời sớm vì một căn bệnh hiểm nghèo thì bà Hải đã tự nguyện ra làm mọn và họ ở với nhau thêm 25 năm trên chặng đường còn lại của cuộc đời.
Từ đó có câu: Cá Nhượng Bạn, khoai Mục Bài/ Khuyên ai về huyện Cẩm khỏi một mai tiếc thầm.
Mãi tận hôm nay cũng chưa ai biết tên tác giả của hai câu thơ. Họ cứ truyền tụng như ca ngợi vẻ đẹp tinh túy của khoai với một mối tình thật đẹp và sự bình yên dung dị của vùng duyên hải Thạch Hà, Cẩm Xuyên.
Vì địa vị của khoai trong đời sống, nên thời đó nghề đúc chum khá thịnh hành và được trọng vọng. Người thợ chỉ cần bộ khuôn tre, tay cầm cái bay bỏ giỏ là vô tư ăn cơm nhà này qua nhà khác cả tháng mà không cần đoái hoài vợ con, rồi tha một cục tiền về nhà. Thuở đó có ông Đức Thừa (sau này mọi người gọi là Thừa đúc chum), quê ở Bình Tiến, xã Cẩm Bình, sống bằng nghề này mà nhà ông đã khá giả nhất vùng. Ông mua được hai nếp nhà gỗ ở Cẩm Mỹ tha về mà không cần đục đẽo gì cả. Nghề đúc chum bây giờ chỉ còn trong kí ức. Về một số địa phương còn thấy nhiều gia đình trưng dụng đựng nước mưa. Của đáng tội, thời đó khoai khô cũng có thể đo được mức độ giàu nghèo của một gia đạo. Ra đường các bậc cao niên gặp nhau thường hỏi thăm “vợ chồng nó được mấy đứa con, mùa vừa rồi cắt được mấy chum khoai” chứ không ai hỏi số tài khoản, hoặc sổ đỏ hay xe loại gì, nhà mấy phòng, mấy gác như bây giờ.
Sau đoạn trường đằng đẵng lấy sức trẻ thanh xuân đổi cơm áo xứ người, tôi tìm về quê hương vào một buổi chiều trong cái nắng xiên khoai. Con đường 19/5 như dải cát lụa khổng lồ, vắt qua miền cát bạc đưa tôi trở lại quê nhà. Hình ảnh những con người lấm láp mà dung dị ngày nào trong đó có ngoại tôi đã viết lên trang sử hào hùng trên cát để quê hương có được như hôm nay, nhưng không thể không nhắc đến khoai, loại lương thực đã tiên phong thắp lên niềm hi vọng trong những năm dài bĩ cực. Hôm nay không còn bóng dáng những con cù nhông ngơ ngác chạy qua đường, không còn nghe tiếng hộc cắt khoai và cũng không còn những người nông dân tóc xoăn tít như râu ngô vì nắng. Giai điệu xưa còn giữ lại là con diều sáo vi vu và tiếng sóng vỗ bờ mang thêm vị mặn mòi của biển cả. Nhiều bãi cát đã phủ màu xanh bởi khoai lang và lạc. Hai bên đường không thiếu những nhà cao tầng mọc lên, chỉ có cảm giác hơi buồn buồn vì cửa đóng im ỉm, chẳng biết họ đi đâu hay ngồi trong nhà tránh nắng.
Anh Phan Xuân Hội - thôn trưởng Mục Bài cho tôi biết: “Diện tích trồng khoai lang hiện không còn nhiều như xưa bởi số đông họ chuyển sang trồng lạc. Tuy vậy khoai lang giờ được giá lại dễ trồng nên ở đây vẫn còn nhiều hộ gieo trồng. Kể ra có một tổ chức nào đó đăng cai tiêu thụ sản phẩm khô thì sẽ đánh thức được tiềm năng nơi đây.” Nằm cạnh đường 19/5 thuộc thôn Đại Hòa, mọi người dễ bắt gặp công ty Hoàng Chu chuyên sản xuất rau củ quả. Với diện tích đấu thầu gần ba chục ha nhưng vụ xuân vừa rồi đơn vị chỉ sản xuất 6 sào khoai. Chị Hồ Thị Lương một công nhân ở đây cho tôi biết: “3 năm vừa rồi khoai được giá và tiêu thụ ở chợ cũng dễ vì chúng tôi trồng những giống khoai ngon của Nhật Bản chuyển về. Cứ một sào cho thu hoạch 1,2 tấn/ 2 vụ thì một sào khoai cũng thu trên 10 triệu đồng, nhưng do tiêu thụ lẻ tẻ nên nhiều nơi ngại trồng khoai là vì vậy.”
Chia tay Công ty Hoàng Chu, tôi đến với thôn Hội Tiến, lúc trời đổ hoàng hôn. Anh Trần Văn Thanh - thôn trưởng đón tôi tại nhà riêng. Trong nụ cười bình thản anh vui vẻ: “Nói chi thì nói chứ đã về đây vào dịp này là phải khoai với lạc luộc.” Rồi vợ anh bê ra một rổ khoai lẫn lạc đang bốc hơi nghi ngút. Lâu ngày được ăn khoai của quê nội, lòng tôi như đang sống lại với những kí ức ngọt ngào của thời quá vãng. Sáng hôm sau anh Thanh đưa tôi ra đồng. Trước mắt tôi những luống khoai mới trồng được vài tuần lá xanh mươn mướt. Anh Thanh nói: Các địa phương khác không trồng khoai tháng 6 bởi họ sợ đại hạn. Riêng ở Hội Tiến hôm nay vẫn còn hơn 80% số hộ gia đình trồng khoai. Đặc biệt ở đây nhiều gia đình còn giữ phong tục trích trữ khoai tươi. Qua tìm hiểu tôi được biết Hội Tiến là địa phương có diện tích trồng khoai lớn nhất ở xứ này. Hiện có hộ chị Nguyễn Thị Quảng; gia đình Võ Thị Từ mỗi gia đình trồng trên 4 sào. Còn những gia đình khác chỉ trồng 1 đến 2 sào. Ngoài giống chiêm bông phát triển củ và rau thích hợp cho chăn nuôi gia cầm thì hiện nay người Hội Tiến còn kết hợp với một số doanh nghiệp rau củ quả đưa giống Satsumaimo của Nhật Bản về trồng. Loại này ruột vàng bẻ ra thơm phưng phức lại có hàm lượng vitamin cao và chất oxi hóa dồi dào, ăn vào cơ thể chống được đột biến đường huyết lại giúp cơ thể hấp thụ chậm hơn nhờ giàu hàm lượng Amylose.
Tôi chia tay những người thân yêu của miền cát bạc trong một buổi chiều ngập nắng. Và tôi lại nhớ đến khoai, nhớ một vùng quê đã nuôi tôi lớn lên bằng cả những điều giản dị nhưng sâu sắc vô cùng. Trong từng củ khoai, ngọn khoai, tôi lại thấy hình dáng quê hương, có cả tình người và tuổi thơ lấp lánh.