![]() |
| Minh họa Đỗ Dũng |
Hội lính của bố ở đây là những người cùng đơn vị: Tiểu đoàn 244, Trung đoàn 202, Bộ Tư lệnh Thiết giáp khi cùng chiến đấu ở Quảng Trị từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1972. Bố tôi còn Hội cùng nhập ngũ tháng 4 năm 1970 nữa, cũng họp được ít năm, nhưng giờ vì tuổi cao sức yếu, chẳng ai tụ lại được nên cũng ngãng ra dần. Chỉ còn hội cùng chiến đấu, vào sinh ra tử là vẫn họp, kiểu gì cũng họp, cố định một ngày trong năm…
Tôi nhớ một chiều năm mười tuổi, khi đi học về, thấy trong nhà nhốn nháo. Đi vào, mấy bác râu ria vồ lấy, soi thật kĩ mặt mũi, cổ, hai tay, làm cho thằng bé là tôi sợ mất mật. Đến khi không thấy gì bất thường mới buông ra cho tôi chạy ào xuống bếp. Bố thấy thế cười phá lên. Mẹ tôi thịt con gà làm mâm rượu giữ mấy bác ở lại ăn cơm. Hóa ra mấy người bạn bố từ dưới Tràng Bạch đạp xe lên, Kim Sơn đi xuống vì nghe tin đâu đó rằng thằng Hưng con ông Hùng làm bảo vệ ở chợ Mạo Khê bị rạch mặt. Chẳng hiểu sao khi đó ở thị trấn tôi tin đồn rạch mặt rộ lên nhiều, có nghĩa là kẻ thủ ác cặp sẵn lưỡi dao lam trong tay, đi đường thấy trẻ con chơi, tan học về thì xẹt qua vuốt má rồi rồ ga phóng đi. Lưỡi lam bén chẳng đau ngay mà lúc sau nạn nhân mới biết. Chẳng biết trong lưỡi dao lam có máu của người nhiễm HIV hay loại bệnh nào đó lây truyền không, cũng chẳng rõ có người nào bị rạch mặt thật không nhưng tin đồn thì cứ thế âm thầm loang ra – sợ sệt thấy rõ. Đi học về cả đám túm lại đi cùng nhau, khi có chiếc xe máy rờ đến thì vội vàng túm tụm lại, hoặc nhao ngay vào nhà dân gần đó hô hoán, đến khi chiếc xe mất dạng mới thập thò ló đầu ra đi tiếp.
Ít lâu sau, tin đồn rạch mặt tan đi như chưa từng có, thay vào đó là tin đồn về đánh thuốc mê, bắt cóc trẻ em bán sang Trung Quốc nuôi hổ. Cũng từ lần bị đồn rạch mặt đó tôi mới gặp bạn chiến đấu của bố. Trong bữa ăn, họ kể những câu chuyện lạ lùng về xe tăng, tháp pháo, kính ngắm nhìn được cả ban đêm…, cách loại vũ khí trang bị nghe lạ lẫm như súng máy đồng trục, súng máy phòng không, súng AK, súng B40, B41, lựu đạn… Rồi đến những lần chết hụt khi pháo bắn vào giữa đội hình, hay khi xe tăng chìm ở bãi biển Cửa Việt. Hoặc lần bắn nhầm người bạn lạc đơn vị, khi người đó mò về lúc chặp sáng, đầu đội mũ sắt, chẳng lên tiếng gì cứ lừ lừ tiến vào, tưởng biệt kích nổ súng ngay, may mà loạt AK chỉ xém qua người, nhận ra nhau rồi vẫn run, đời lính có những khi bắn hụt lại mừng hơn bắn trúng. Rồi lần giữa trận, người anh tên Hòa tiểu đội phó hi sinh, đành để nằm lại ven nhà thờ hai tháp đổ, khu vực bắc Thanh Hương – lấy đó làm điểm chỉ dấu. Đến đêm quay lại tìm, nhà thờ vẫn đấy, chỉ không thấy người đâu. Đạn bom cày xới thân thể hay đã được ai chôn cất, rồi chôn cất ở đâu, biết sau này người thân ở quê có biết mà tìm. Khi mà giấy báo tử nào gửi về cũng một dòng chung chung: hi sinh tại mặt trận phía Nam; an táng tại nghĩa trang đơn vị. Mặt trận phía Nam tính từ vĩ tuyến 17 đổ vào, nghĩa trang đơn vị thì đời lính rong ruổi có dừng mãi một chỗ bao giờ. Chưa kể vùng giáp ranh, nay của ta mai của địch, giao tranh giành giật liên miên.
Cũng có người người bạn tên Ngoãn hi sinh, chính tay bố cùng mấy anh em chôn một chiều ở thôn Cổ Lũy. Mà rồi sau hòa bình nhiều năm lại có người bên quân pháp về xác minh. Bố bình tĩnh kể thêm vài người có mặt chiều hôm đó, khi OV-10 phát hiện đội hình của ta bắn đạn khói chỉ điểm, máy bay phản lực A37 liền nhào đến trút bom, sau đó là pháo địch từ hạm đội ngoài biển nã vào. Chính tay bố vuốt mắt, đào hố, thì làm sao nhầm được. Bố dặn đi dặn lại người xác minh làm gì cũng nghĩ đến gia đình liệt sĩ. Còn bao anh em sống đây sẵn sàng làm chứng…
Rồi từ buổi gặp đầu tiên đó. Dần dà, tôi chủ động gợi chuyện cho bố kể. Ngoài chuyện trực tiếp chiến đấu ở chiến trường, còn cả chuyện trước khi vào chiến trường, chuyện hậu chiến. Khi những người lính rời tay súng trở về xây dựng quê hương.
![]() |
| Bố tôi (ngoài cùng bên phải) cùng bạn đồng ngũ. |
Người tôi nhớ nhất thuở ấu thơ là bác Duyến, quê Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên cũ. Bác ra Mạo Khê làm chính xác ngày tháng năm nào tôi chẳng rõ. Dáng bác thấp đậm, đi thường hay chúi người về trước. Từ lúc tôi biết bác đã làm bảo vệ khu nhà tập thể mỏ Quang Trung – thuộc công ty than Mạo Khê từ bao giờ. Bọn trẻ trong xóm thường hay lên đây đá bóng, đổ dế, đáp ong, trèo cây hái quả. Ngoại trừ đá bóng bị cấm vì khu tập thể cần yên tĩnh để cho công nhân đi làm về ngủ, còn các việc chơi kia thì thoải mái. Nhưng càng cấm lại càng ham, chưa kể chỉ có khu tập thể mỏ là có sân bê tông rộng, đá chẳng lo xe cộ, người lớn cũng hiếm khi lên tận đây tìm. Hai giờ chiều nắng đẫy, bọn trẻ chúng tôi chia phe xong là lao vào trận ngay, hò hét khi ghi bàn, cãi nhau khi có thằng dùng tay chơi bóng, lại vừa canh cánh nỗi lo bảo vệ thu bóng, bởi bóng bị thu lấy tiền đâu ra mua bóng mới.
Cho đến một ngày quả bóng nhựa mới cứng vừa mua hai nghìn, tôi sút ghi bàn đúng vào chân bác bảo vệ đang đi ra nên bị thu ngay chẳng kịp ôm chạy. Mấy đứa tiếc của túm nhau lại trước cửa phòng tổ bảo vệ. Nếu không xin được bóng thì buổi chiều hôm nay coi như bỏ. Đứa nào cũng muốn có bóng để đá, nhưng đứa nào cũng sợ chẳng dám vào. Mà tội lỗi sau một hồi bàn thảo là thuộc về tôi, vì đá mạnh quá.
Chờ mãi, rập rình, tôi nhìn bác bảo vệ ngờ ngợ gặp đâu rồi.
Cuối cùng bác đi ra, nhìn một lượt rồi gọi tôi vào phòng, hỏi:
“Mày là con ông Hùng bà Đèn ở khu Vĩnh Trung đúng không?”
“Vâng. Bác biết bố cháu?”
“Mày giống bố như lột. Tao tên Duyến, bạn đánh nhau với bố mày. Lần sau bốn giờ trở đi hẵng đá, để công nhân làm ca còn ngủ. Có mấy quả bóng ở trong nhà tắm cho mang về cả đấy.”
Tôi vội vàng ra sau lấy bóng, như vẫn chưa tin vào điều may mắn của mình. Trong số bóng được cho hôm ấy có cả hai quả bóng da cả trăm nghìn. Từ đấy, tôi vụt trở thành anh hùng trong mắt bọn trẻ con trong xóm. Mỗi khi có đá bóng kiểu gì chúng cũng gọi tôi đi cùng. Và mỗi lần lên nhà tầng chơi tôi đều ghé qua phòng bác, để mang cho bác đôi lít rượu bố gửi, để nhận của bác mấy cái bánh mì mỏ, bánh ông sao mang về. Khi thì xin bác nước vào can năm lít mang ra đổ dế. Những năm ấy trẻ con, tôi chưa từng hỏi gia đình bác ở quê thế nào…
Khi lớn hơn, không còn theo đám bạn chạy chơi mỗi chiều nữa thì tôi biết bác Hòa, bác Tuyến. Bác Hòa người to béo, nhà ở ven đường quốc lộ 18A, đoạn qua Tràng Bạch. Số là năm ấy tôi thi vào cấp 3, thiếu điểm vào trường công gần nhà nên phải chuyển xuống trường xa hơn. Việc đầu tiên khi biết tôi phải đi xa đó là bố cho tập đi xe đạp. Vì là con một, nghịch ngợm lếu láo có thừa, nhưng tận sâu lại nhát cáy, sợ đau lên hết lớp chín vẫn còn nhằng nhẵng đi bộ trên mọi nẻo đường từ học chính đến học thêm. Giờ đi học xa bắt buộc đi xe bố cho tôi tập xe. Đầu tiên đi lòng vòng quanh khu tập thể mỏ, khu chợ Đồi, đi dần vào chùa Non Đông phía núi, rồi bố tôi dạy cách đi sang đường 18A lúc nào cũng tấp nập xe qua lại. Khi đi đã vững, biết đi ham đi, bố dắt tôi xuống nhà bác Hòa giới thiệu. Nhà bác cách trường chừng nửa cây số, có việc gì cứ vào tìm bác. Không có việc, biết nhà rồi đi học cứ ghé vào chơi.
Đi học được ít lâu, chừng như không yên tâm về ông con nghịch ngầm, bố tôi dẫn tôi xuống nhà bác Tuyến. Nhà bác Tuyến cách nhà bác Hòa hơn cây số. Người bác gầy gò, rắn chắc, năm tôi xuống bác vẫn nhận nhiều ruộng cấy, vẫn lái máy cày đi cày thuê cho người trong làng. Nhà bác có mấy người con đều là con trai. Bố dẫn tôi xuống mục đích để nhờ mấy người con bác làm “bảo kê” nếu ở trường mới lạ nước lạ cái chẳng may bị bắt nạt. Sau này tôi mới biết chuyện người bố kể bắn nhầm trong chiến tranh là bác Tuyến. Bác Tuyến vừa hút thuốc lào vừa trêu: “Tao đẻ con trai cả. Chứ nếu con gái kiểu gì cũng bắt bố mày làm thông gia.”
May mắn thay khi tôi đi học dưới đó chẳng có chuyện gì xảy ra. Thi thoảng tôi cũng vẫn vào nhà hai bác chơi. Những năm sau này hai bác yếu nhiều, đi viện liên miên. Có lần, khi tôi đã ra trường, làm việc dưới Hạ Long về, bố mẹ bảo mấy hôm trước bác Tuyến lên khám bệnh trên Trung tâm y tế than Mạo Khê trưa có ghé vào ăn cơm. Bác giờ yếu, nhiều bệnh lung tung cứ thế phát ra, bác gái lại tai biến, giờ công việc trong nhà bác cáng đáng cả, ruộng cũng trả người ta hết rồi, chẳng còn sức đâu làm nữa. Từ bác Tuyến tôi hỏi sang bác Hòa, bố bảo bác Hòa cũng mới điện đây, cũng nằm trên viện Đông Triều suốt, tiểu đường rồi tim mạch. Từ hai bác tôi nhìn sang bố, bố tôi giờ bệnh phổi mãn tính cũng phải lấy thuốc định kì theo tháng, trái gió trở trời là khó thở.
Cũng trong lần về này bố kể cho tôi nghe chuyện về bác Hạnh, cũng trong hội lính của bố, sáng trưa chiều là ra đứng đón trẻ cấp 1, cấp 2 trường Hồng Thái Đông qua đường, được cả báo tỉnh đưa tin. Tôi nghe bố nói, xin số điện thoại ngay để gọi điện hỏi thăm. Hóa ra bác đã có gần hai mươi năm bám trụ đưa trẻ con qua đường rồi. Người dân nơi đây gọi vui bác là ông Hạnh barie. Ý tưởng đưa trẻ qua đường được hình thành từ năm 2004, ban đầu nhiều người phản đối. Bác quyết tâm làm, kể từ khi có người đưa các vụ tai nạn giao thông quanh khu vực trường học giảm hẳn. Bởi trẻ con đâu có quan sát, cẩn thận được như người lớn, lại còn hay trêu đùa nên qua đường rất nguy hiểm. Giờ có người đưa phía phụ huynh, nhà trường cũng yên tâm. Cánh lái xe giờ thành phản xạ, đi qua thấy người đàn ông tóc bạc, mặc áo cựu chiến binh, tay đeo băng đỏ, giơ gậy lên là lập tức dừng lại hoặc đi chậm nhường đường. Bác Hạnh kể đã được nhiều bằng khen các cấp, nhưng điều đó chẳng quan trọng, điều quan trọng là bác nhận được tình yêu thương của mọi người xung quanh. Và đặc biệt, của những đứa trẻ dẫn qua đường từ hồi bé xíu, giờ đã lập ra đình, giờ thấy bác làm việc là dừng lại để chào một tiếng ông rồi đi. Bác dặn tôi, khi nào rảnh xuống trực tiếp trải nghiệm một buổi “đưa đường” cùng bác…
Ngẫm ra, bạn chiến đấu của bố về đời thường ai cũng vất vả cả. Như bác Thấng ở Kim Sơn, đi lính về hai vợ chồng làm đủ nghề từ công nhân nhà máy gạch, đến làm đầm nuôi cá ở sông Kinh Thầy. Đến giờ già rồi, các con có công ăn việc làm ổn định mới tạm nhàn đi đôi chút. Hay như bác Tiễu nhà dưới Uông Bí, làm công nhân nhà máy ô tô, về hưu lương chẳng bao nhiêu, chưa kể còn mất hết giấy tờ nên chẳng làm được chế độ thương binh…
Đến năm 2017, tôi chuyển việc từ Hạ Long lên Hà Nội, nên hằng năm việc về quê để đi cùng hội lính, đưa bố đi thăm nhà các bác cũng thưa dần. Nhưng năm đó bố gọi lên bảo hai vợ chồng về Tiên Lữ ăn hội lính với bố, nay làm ở nhà bác Duyến. Bác Duyến như tôi đã kể từng làm bảo vệ ở khu tập thể mỏ. Sau bác bị ung thư dạ dày, may phát hiện sớm cắt đi một phần lên sức khỏe cũng dần ổn định. Chỉ có điều giờ về quê chẳng đi đâu được, chỉ mong có lần nào đó anh em ở Quảng Ninh về họp đồng ngũ tháng chín ở nhà bác lấy một lần.
Nhà bác Duyến nằm gần sông Hồng, trong đê. Khi thấy bạn về, chưa kịp để mọi người nghỉ ngơi bác đã sai bác gái cùng mấy người họ hàng bày mâm. Bảo vừa ăn vừa nói chuyện, không chiều các ông lại về mất rồi. Quanh đi quẩn lại chẳng có chuyện gì ngoài chuyện chiến tranh, vẫn người còn người người mất, vẫn thằng A thằng B sau hòa bình từng gặp mà rồi giờ chẳng biết ở đâu. Mới gặp đây thôi mà đã lo sang năm ăn ở nhà nào. Mà thực chẳng phải việc ăn, đôi mâm cơm bày ra bao nhiêu món, lại từng ấy món mang đi. Tôi để ý chai rượu vẫn đầy nguyên. Nó khác hẳn với lần các bác đến nhà năm xưa khi nghe tin tôi bị rạch mặt. Lần đó rượu hết đôi ba lít, tiếng nói oang oang vang vọng khắp nhà. Giờ tất cả đều ăn uống nhọc nhằn, tiếng nói phều phào, đôi bác tai còn khó nghe. Nhưng ánh mắt thì vẫn sáng bừng lên mỗi khi nghe đến tên người bạn đã hi sinh, về trận đánh mình đã tham dự, về cảnh huống hiểm nghèo đã trải qua trong đời…
Lần đó cũng là lần cuối cùng hội lính họp tại nhà bác Duyến. Bác Duyến mất năm dịch Covid-19 bùng phát đỉnh điểm, bạn lính ở tỉnh khác chẳng biết vì bác gái giấu không báo. Sau này bác Hòa gọi vào số bác Duyến mãi, hú họa mới có lần bác gái lấy máy trong tủ ra sạc nghe máy, được tin, bác báo lại cho mấy anh em, bố tôi cũng buồn. Nên khi dịch vừa hết, tôi về là bố bắt chở đi thăm lần lượt các bác, rồi điểm đến cuối cùng là nghĩa trang liệt sĩ Yên Thọ. Bố vào thắp hương cho người bạn thân gần nhà, cùng đi lính, cùng đơn vị, cùng những lần về phép với nhau: liệt sĩ Trần Xuân Vỹ, hi sinh ngày 30 tháng 4 năm 1975, trước giờ giải phóng chưa đầy một tiếng, ở cửa ngõ Sài Gòn. Bố với bác Vỹ có chung với nhau nhiều kỉ niệm, chẳng có chuyện gì giấu nhau cả. Đến sau này, người yêu của bác Vỹ lấy chồng bên Hải Phòng bố cũng cùng gia đình bác Vỹ sang dự. Cứ đến sát ngày 30 tháng 4 năm nào bố cũng nhắc bác, bảo giá như, giá như…
Tôi giờ cũng trở thành quân nhân. Tôi nhớ, khi được phong hàm trung úy, việc đầu tiên là đóng bộ, khấp khởi ra bến xe Giáp Bát bắt xe về Mạo Khê. Tôi muốn bố thấy tôi trong bộ quân phục màu xanh của lính…