Năm 1996, thầy Lương Phương Hậu là người đầu tiên được phong hàm giáo sư của ngành cảng - đường thủy Việt Nam. Ngoài công việc chính: đào tạo sinh viên, hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ, nghiên cứu lí thuyết, viết giáo trình, tham gia viết quy trình… thầy Hậu còn lặn lội nhiều vùng đất nước để biến các đề tài khoa học của mình thành công trình thực tiễn từ giai đoạn khảo sát, chủ trì lập thiết kế và trực tiếp chỉ đạo thi công, giúp người dân bản địa tránh được đại họa xói lở do nước sông, sóng biển. Đi dọc bờ biển khảo sát phục vụ các đề tài khoa học và các công trình, thầy phát hiện Truyện Kiều có 3.254 câu, bằng chiều dài bờ biển từ Móng Cái (biển Đông) đến Hà Tiên (biển Tây) ước chừng dài 3.254 km (theo tư liệu là 3.260 km). Trên bờ biển đó, 6 giờ triều lên 8 giờ triều xuống đúng bằng số từ câu thơ lục bát. Hình như thuận với tự nhiên nên Truyện Kiều - thể thơ lục bát tồn tại cùng thời gian. Thầy dùng sự trùng hợp đó để khuyên học sinh của mình hiểu rõ tự nhiên cư dân bản địa nhằm thiết kế công thuận với tự nhiên khu vực xây dựng, công trình sẽ có giá thành rẻ và vững bền, phục vụ con người, dần trở thành bộ phận văn hóa của cư dân bản địa, nên tồn tại lâu dài với thời gian...
![]() |
| Công trình đê “càng cua” ở cảng cá Phan Thiết do GS Lương Phương Hậu nghiên cứu, thi công. Ảnh: Kiến Thức |
Giáo sư, tiến sĩ Lương Phương Hậu có một sự nghiệp khoa học đáng trân trọng: đào tạo 37 khóa (gần ngàn sinh viên), thầy đã hướng dẫn và đồng hướng dẫn bảo vệ thành công luận án cho 15 nghiên cứu sinh thạc sĩ và 18 nghiên cứu sinh tiến sĩ. Trong số đó, nhiều người đã trở thành nhà khoa học đầu ngành, giáo sư, phó giáo sư, các lãnh đạo chủ chốt tại các cơ quan, tổ chức, cục, vụ, viện, các doanh nghiệp.
Chúng tôi nhớ thầy dạy môn Điều chỉnh lòng sông vào học kì 1 năm thứ tư. Thầy nhập môn bằng câu ca dao “Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm.” Thầy vẽ ra đoạn khúc sông cong, cứ cong mãi cho đến khi thắt eo và 2 đầu đoạn cong nối vào nhau thành khúc sông thẳng để lại một hồ tự nhiên hình gần như bán nguyệt. Thầy nói: với sông cong mới đưa được nhiều nước ra biển. Thầy giải thích thêm: những hiện tượng mưa lũ, sóng gió… đều có lợi cho tự nhiên và trở thành cực đoan trong mắt loài người từ khi biết xây dựng các công trình đồ sộ không thuận theo tự nhiên. Dòng sông, bờ biển không phải là món quà biếu không của tự nhiên. Trong 4 đại họa của loài người: thủy, hỏa, đạo, tặc, thủy tai đứng đầu. Cũng như các diễn viên xiếc dạy thú dữ làm trò giải trí trong rạp xiếc, nếu không có cách dạy khoa học thuần phục được thú, bắt nó nghe lời làm trò mà chọc tức nó, con thú sẽ trả thù con người một cách hết sức tàn bạo. Đó là điều tồi tệ đã từng xảy ra không ít trong thực tế. Khoa học chỉnh trị sông chính là bảo bối để con người chinh phục hiệu quả dòng sông, bảo vệ bờ biển… Do tầm quan trọng: liên quan đến an ninh quốc gia, bảo đảm an toàn tính mạng cho số đông (hàng vạn) dân cư và tài sản, yêu cầu phải gắn khoa học với thực tiễn để giải quyết tốt nhiệm vụ thiết kế.
Do chính sách mở cửa của Đảng, ngoài giảng dạy ở trường ra thầy còn lặn lội khắp mọi miền đất nước, liên hệ với các cơ quan nghiên cứu, tư vấn… trực tiếp tham gia thực hiện nhiều dự án công trình thủy lợi, cảng- đường thủy, nhất là công trình chỉnh trị sông và bảo vệ bờ biển là chuyên ngành sâu của thầy. Trong bài viết này, tôi chỉ đề cập đến vài công trình thầy chủ trì thiết kế năm 1993, lúc thầy ở tuổi 54.
*
![]() |
| GS.TS Lương Phương Hậu về thăm lại công trình tại đường Tô Thị Huỳnh được tôn tạo nhờ hệ thống kè bờ ổn định. |
Quản Xá là đoạn đê dọc theo bờ lõm của khúc cong sông Chu trước khi hợp lưu với sông Mã. Bên phải có núi Đọ nổi tiếng với nền văn minh Đông Sơn rực rỡ. Bên trái là tuyến đê bảo vệ cả một vùng dân cư 16 xã của huyện Thiệu Hóa và Yên Định nằm giữa sông Chu và sông Mã. Đoạn sông này cong gấp nhất trên toàn tuyến sông Chu, cản trở dòng chảy, nước ứ dềnh. Dưới chân bờ sông dốc đứng là các hố sâu cục bộ do xoáy nước tạo ra. Đỉnh đê cao 25 mét, nước xô vào. Đến mùa lũ, hàng trăm người chực sẵn để hộ đê vẫn không chắc chắn tránh được hiểm họa đê vỡ.
Năm 1993, Thầy Lương Phương Hậu được Trung tâm Phát triển công nghệ Trường Đại học Thủy Lợi mời hợp tác thực hiện dự án, chủ đầu tư là sở thủy lợi Thanh Hóa.
Thầy Hậu mất một ngày vượt sông sang bờ phải, trèo lên núi Đọ nhìn bao quát đoạn sông, đi lên phía cầu Vạn Hà, đi xuống phía núi đá gần Cầu phao Vồm, đến ngã ba sông Mã, lấy ý kiến nhân dân trong vùng. Về đến Sở Thủy lợi, trải rộng tấm bình đồ địa hình đoạn sông, thầy vạch ra một nét cong vuốt thoải khúc cong gấp Quản Xá.
![]() |
| Công trình bảo vệ bờ biển Nha Trang sau 30 năm vẫn phát huy hiệu quả và trở thành địa điểm chụp ảnh lý tưởng cho người dân, du khách ở thành phố biển xinh đẹp này. Ảnh: KIẾN THỨC |
- Cắt sông?!... - thầy Quyền bật kêu.
Thầy Hậu gật đầu. Thuật ngữ “cắt sông” có nghĩa cắt đoạn sông cong đưa dòng chảy đi hướng khác, một thủ thuật hiện đại nhưng nguy hiểm.
Thầy Hậu đề xuất phương án chỉnh trị: đào kênh dẫn qua bãi Thiệu Tân nhằm cắt đoạn cong gấp, nắn lại tuyến sông Quản Xá, loại bỏ hoàn toàn nguy cơ cho đoạn đê Quản Xá.
- Ở Việt Nam đã có địa phương nào cắt sông chưa? - Ông Diệu hỏi.
- Đã làm rồi, nhưng đều thất bại, vì kênh đào không phát triển được và bị bồi lấp.
Tất cả mọi người im lặng.
Thầy Hậu trình bày phương án công trình cắt sông trước các chuyên gia Cục Đê điều. Các ý kiến phát biểu đều thống nhất phương án cắt sông mạo hiểm, đừng đùa với lũ, cứ kè chắc vào là xong. Vấn đề là biện pháp công trình dùng kè, rất tốn kém đã được Sở Thủy lợi Thanh Hóa thực hiện không có hiệu quả. Do đó, buộc phải trình phương án cắt sông lên Bộ Thủy lợi.
Sau khi nghe thầy Hậu trình bày, Thứ trưởng Bộ Thủy lợi Phan Sĩ Kỳ, thận trọng:
- Thầy ơi, mạo hiểm đấy. Không chắc ăn, là gay go cho thầy! Thầy phải kí vào biên bản cuộc họp đảm bảo thành công tôi mới quyết được.
- Thứ trưởng phải duyệt làm mô hình lòng động và mô hình lòng cứng mới tính được mức độ an toàn.
- Đồng ý - Thứ trưởng quyết.
Thời gian đó, thầy Hậu đồng thời đang đảm nhiệm chủ trì thiết kế ba dự án lớn khác ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ và dạy học. Có những tuần, thầy bay đi bay về giữa Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đến hai lần. Mô hình thí nghiệm vật lí về xử lí đê Quản Xá được tiến hành tại Sân mô hình C6 của trường Đại học Xây dựng, hoạt động liên tục trong suốt hai tháng trời cho kịp trước mùa lũ đến.
Sau hai tháng thí nghiệm hàng chục phương án bố trí công trình, cuối cùng các tác giả đã báo cáo kết quả nghiên cứu của mình. Theo đó, các tác giả đề xuất phương án tuyến kênh mồi (1) và mặt cắt kênh có chiều rộng 40m, đáy kênh ở cao trình - 1,0m2, đê hàn hướng dòng ở cửa vào và 5 đê bảo vệ bờ ở hạ lưu cửa ra kênh dẫn. Thứ trưởng Phan Sĩ Kỳ xuống tận sân thí nghiệm kiểm tra và nghe báo cáo về phương án chọn, duyệt phương án và cho thiết kế kĩ thuật thi công ngay.
Công trình Cắt sông Quản Xá được thực thi khẩn trương, hoàn thành vào giữa năm 1994. Đây là công trình cắt sông nhân tạo đầu tiên thành công ở Việt Nam, bảo vệ được tính mạng và tài sản của người dân 2 huyện lớn Đông Sơn và Triệu Sơn của tỉnh Thanh Hóa.
*
Đầu năm 1993, ông Trần Ngươn - Giám đốc Sở Thủy lợi tỉnh Ninh Thuận, (nay thuộc Khánh Hòa) kể về trận lũ quét làm bờ trái sông Cái Phan Rang sạt lở, chân đê có nguy cơ vỡ, uy hiếp tính mạng và tài sản của dân cư thị xã Phan Rang - Tháp Chàm, nhưng không có kinh phí để kè lại. Đê cao, thân đê hẹp, mái đê rất dốc, đất sụt, các bụi cây đổ ngả nghiêng ở chân đê trước mặt khu dân cư kín đặc nhà cửa. Sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, thầy tìm ra ý tưởng kết cấu mới, đảo ngược các quá trình tự nhiên, tức là đẩy dòng chảy mặt ra xa bờ lở, đồng thời kéo được bùn cát đáy quay về và bồi tụ lại cho bờ lở, tạm đặt tên kết cấu đảo chiều hoàn lưu. Ý tưởng táo bạo này được Giám đốc sở ủng hộ và kí hợp đồng tiến hành dự án.
Công trình đảo chiều hoàn lưu Phan Rang - Tháp Chàm khởi công ngày 04/8/1993. Công trường chỉ có một xà lan với một giá đóng cọc, chục công nhân làm việc. Chỉ sau 2 tháng, xây dựng xong 2 đoạn tường đóng bằng các cọc bê tông phía trên liên kết các tấm bản bê tông và phía dưới hở ra khi triều xuống như một hàng người mặc quần đùi đứng san sát nhau, tạo thành bẩy giữ cát, gây bồi, như nét vẽ mỏng manh trên mặt nước. Trẻ con trèo lên đỉnh cọc, chơi đùa, người lớn giặt giũ, tắm rửa nơi bệ đá gốc kè. Không có nghi lễ khởi công, hoàn công, đã bảo vệ cho an sinh thành phố Phan Rang Tháp Chàm với hơn 208 ngàn người, trong diện tích gần 80 km2.
Phóng viên báo Nhân dân viết bài ca ngợi các tác giả dự án. Sự kiện này đã được các phương tiện báo đài, tạp chí đưa tin, làm mô hình triển lãm tại Hà Nội. Nhiều đoàn ngoài nước đến tham quan, quay phim, chụp ảnh.
Các nhà đầu tư chỉ quen áp dụng các quy trình, quy phạm đã có, họ e ngại ứng dụng công nghệ mới. Một số dự án có áp dụng công trình đảo chiều hoàn lưu đã bị từ chối, chỉ vì áp dụng kết cấu này dẫn đến dự án có tổng mức đầu tư quá thấp. Kết cấu đảo chiều hoàn lưu, không ai nhắc đến nữa.
15 năm sau (năm 2008), một đoàn khoa học Nhật Bản do giáo sư, tiến sĩ Hosoda (đoạt giải Nobel) đến thăm hiện trường công trình ở Phan Rang. Giáo sư Hosoda kinh ngạc về tác dụng của loại công trình này. Theo đánh giá của ông, kết cấu rẻ gấp chục lần công trình cùng loại, thi công dễ và nhanh, không cần thiết bị kĩ thuật cao nhưng hiệu quả cao đến mức bất ngờ.
Mùa lũ năm 2008, xảy ra sự cố của công trình chỉnh trị sông Quảng Huế (Quảng Nam), các nhà thiết kế bị chỉ trích dữ dội do công trình kiên cố, tốn kém bị lũ phá tan tành. Năm 2009, Giáo sư, tiến sĩ Lương Phương Hậu được mời làm cố vấn khoa học, quyết định sử dụng hệ thống công trình đảo chiều hoàn lưu đã ổn định đoạn sông này minh chứng cho triết lí thiết kế thuận với tự nhiên sẽ cho hiệu quả cao, chi phí thấp và vững bền với thời gian.
Ngày 08/6/2010, Cục Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học công nghệ cấp bằng độc quyền sáng chế số 8518 về sáng chế kết cấu đảo chiều hoàn lưu cho giáo sư tiến sĩ Lương Phương Hậu.
Văn hóa công trình lúc bấy giờ đề cao các công trình có tổng mức đầu tư lớn, ổn định vừa phải để được cấp kinh phí duy tu, trung tu, đại tu và sau 50 năm, có thể phá đi xây dựng lại. Kết cấu Đảo chiều hoàn lưu có khối lượng công trình nhỏ, tính ổn định cao, không cần tu sửa, cải tạo thường xuyên, đã góp phần dần thay đổi văn hóa công trình.
*
Năm 1993, Cục Xây dựng Bộ Công An kí hợp đồng thiết kế công trình bảo vệ bờ biển cho nhà nghỉ 378, thành phố Nha Trang với Trung tâm Nghiên cứu và phát triển công nghệ - Trường Đại học Xây dựng. Khu vực vốn là tư dinh của bác sĩ Yersin, dân xóm Cồn cửa sông Cái gọi là Lầu ông Tư.
Thầy Hậu lúc đó là phó giám đốc trung tâm. Đúng vào ngày đầu tiên vào thị sát, thầy chứng kiến trận sóng đánh, cả bức tường bao của nhà nghỉ 378 rung lắc, nước biển tràn vào sân. Đoạn tường góc phía nam nứt toác, nền nhà dân đứng chông chênh trên vài chiếc cọc. Khu dân Xóm Cồn ở phía Bắc sập đổ để lại dấu vết hoang tàn. Triều rút, lộ ra nhiều khối bê tông kè cũ, kích cỡ 1m3 (nặng 2,4 tấn) được sóng hất từ dưới chân kè lên đỉnh kè, cao hơn 2,5m. Lộ ra dưới chân kè rất nhiều hang hốc lớn, khoét ngầm vào bờ, hình ảnh cho công trình tốn kém đã thất bại. Thầy Hậu trực tiếp lội xuống dò dẫm từng hang hốc dưới chân kè.
Thầy Hậu đưa phương án: Thân kè, sử dụng tường hắt sóng dạng thủy động lực (thầy đưa ra công thức toán học xác định chiều cao, độ cong ứng với chiều cao sóng). Chân kè được bố trí các cấu kiện lát mái hình chữ nhật có lỗ khuyết tiêu sóng. Để ngăn chặn và tiêu sóng vào bờ, phải dùng khối Tetrapod. Nhưng cho đến năm 1992, chưa có công trình biển nào ở Việt Nam dùng khối này.
Thầy và đồng nghiệp mày mò mãi để tìm cách tính toán và làm cốp-pha chế tạo thành công các khối Tetrapod. Đúc xong, các khối được đưa lên xà lan bằng cần cẩu, vận chuyển đến công trình và được thả xuống bờ biển.
Và đứng trước biển là các khối Tetrapod 4 chân, 3 chân cắm vào cát, chân còn lại nghênh chiến với sóng, làm giảm năng lượng các con sóng xô bờ. Dù bị sóng quăng quật, lăn lê kiểu gì thì do hình dạng 4 chân đều nhau, khối Tetrapod vẫn làm tiếp nhiệm vụ tiêu hao năng lượng của sóng.
Khởi công năm 1993, sau 3 tháng thi công, kè biển Bộ Nội vụ 378 của Bộ Công an, đã hoàn thành. Kè chống sóng tốt, có tính thẩm mĩ cao, trông sang trọng… được áp dụng cho nhiều đoạn khác của biển Nha Trang.
Cũng trên cơ sở đó, thầy Hậu đã cố vấn và giúp đỡ các đồng nghiệp địa phương xây dựng những dự án, kè bảo vệ bờ biển cho các đoạn còn lại của thành phố Nha Trang. Tiếp đến, áp dụng ở một số nơi trong cả nước.
Kết cấu được giáo sư tiến sĩ, nhà giáo nhân dân Hoàng Xuân Lưỡng tham khảo, ứng dụng cho các công trình bảo vệ một số đảo Trường Sa, mang về giải thưởng Hồ Chí Minh cho giáo sư Hoàng Xuân Lưỡng.
*
Cửa sông Cà Ty là cửa có luồng vào cảng cá Phan Thiết (nay thuộc tỉnh Lâm Đồng), luồng lạch rất xấu. Thời Việt Nam cộng hòa quản lí, để cải tạo đã làm đê chắn sóng bằng đá đổ, người dân gọi là kè Lệ Xuân. Công trình chỉnh trị không cải thiện được tình hình, lại tạo ra diễn biến xấu hơn: bùn cát lấp cạn luồng tăng lên, tàu cá của ngư dân ra vào một ngày phải mất trên 5 giờ đợi chờ.
Vào 1992, đây là loại công trình lạ, chưa hề xuất hiện ở Việt Nam, chưa hề có quy trình, quy phạm về loại công trình này. Thầy Hậu chủ trì đề xuất phương án đào luồng qua ngưỡng cạn chắn cửa và dùng hai công trình ngăn cát giảm sóng như 1 gọng kìm để bảo vệ luồng. Đây là công trình chỉnh trị cửa sông Việt Nam đầu tiên bố trí công trình cả 2 phía, mũi đê vươn ra đến nơi đáy biển có cao trình - 5,5m3.
Tiếp đến, thầy Hậu đã sử dụng tường lõi, sáng kiến rất có hiệu quả. Nhờ đó, tuyến đê C2, dài gấp đôi tuyến đê C1, nằm ở vị trí biển sâu hơn, chỉ mất 1 năm đã hoàn thành thuận lợi.
Cho đến nay, đê C2 cảng cá Phan Thiết là công trình đẹp nhất so với các công trình cùng loại. Đỉnh đê phẳng lì, các khối tetrapod vẫn giữ được ổn định hàng lối. Ô tô tải, ô tô khách, có thể chạy an toàn từ gốc ra mũi đê. Công trình đẹp trong lòng ngư dân khi ra khơi và trở về lúc trời yên biển lặng và cảm giác an toàn lúc bão giông, sóng lớn ở ngoài khơi...
Còn Vĩnh Long là công trình bảo vệ bờ quy mô lớn đầu tiên sau 1975 thực hiện trên đồng bằng Sông Cửu Long.
Các đoạn bờ sông Vĩnh Long nham nhở, bẩn thỉu, những xóm dân cư kiểu ổ chuột nằm chênh vênh trên những cọc tràm. Kè cũ xây xong, sụp đổ khiến đường Tô Thị Huỳnh đã bị sạt mất hơn nửa, quán cà phê bên Khách sạn Cửu Long đã phải di dời. Thầy Hậu cùng phó giáo sư Lê Ngọc Bích lội xuống sông, chui vào các gầm nhà quan sát các hố xói hàm ếch trong bờ, hứng chịu “cơn mưa” từ các nhà vệ sinh dội xuống.
Bờ sông đất rất yếu, sông sâu trên 30m, không thể ứng dụng các kiểu kè miền Bắc được. Thầy Hậu đề xuất kết cấu kè tường đứng: đóng cọc bê tông cốt thép, lắp các bản chắn bằng bê tông cốt thép và neo vào đất. Chân kè gia cố bằng thảm đá.
Công trình khánh thành vào cuối năm 1995. Trên bờ kè, từ hiện trạng nham nhở, nhếch nhác được cải tạo thành vườn hoa, lối đi tạo cảnh quan phục vụ du lịch. Công trình chỉnh trị trên sông Cổ Chiên bảo vệ cho 14 vạn dân.
Đây không chỉ là 1 công trình có ý nghĩa khoa học - công nghệ cao mà còn mang tính lịch sử trên sông Cửu Long. Công trình được sử dụng đa năng cho đường bộ phía trên và ghe xuồng neo cập ở phía sông làm thay đổi diện mạo một khu vực thành phố hiện đại theo hướng thân thiện với môi trường…
*
Ngày 02/3/1982, Bộ Giáo dục và Đào tạo Romania cấp học vị tiến sĩ cho nghiên cứu sinh Lương Phương Hậu.
Ngày 18/9/1991 tiến sĩ Lương Phương Hậu được phong phó giáo sư.
Ngày 8/7/1996, Hội đồng Học hàm Nhà nước phong phó giáo sư tiến sĩ Lương Phương Hậu học hàm giáo sư, là giáo sư đầu tiên của ngành cảng - đường thủy. Mãi đến năm 2014 mới có giáo sư thứ hai của ngành.
Thầy đã chủ trì thiết kế 13 công trình chỉnh trị sông, 1 cống ngăn mặn, 2 bến cảng, 10 công trình bảo vệ bờ biển...
Các công trình chỉnh trị sông của thầy Hậu nghiên cứu và xây dựng đã đạt tới những thành công, kết quả chưa từng có nhờ lần đầu áp dụng các kĩ thuật, công nghệ tiên tiến trên thế giới vào công trình Việt Nam. Thiết kế đạt yêu cầu về mức độ ổn định của công trình trên 30 năm và công trình kết hợp với bảo vệ môi trường, cải tạo cảnh quan và trên hết: giá thành rẻ hiệu quả cao. Bước đầu tạo ra văn hóa thiết kế các công trình chỉnh trị sông thuận theo tự nhiên do đó kinh phí rất thấp, hiệu quả cao và vững bền theo thời gian.
*
Ngày 24/6/2017, tại Sài Gòn, tôi dìu thầy bước lên vỉa hè ngã ba đường Trần Hưng Đạo vẫn còn nhiều chỗ đọng nước. Thầy nói:
- Dạo này thầy đi làm công trình rất nhiều nơi, trải dài trên 3 miền đất nước (thầy hợp tác với 18 viện, công ty tư vấn, Sở thủy lợi) nên hôm nay được gặp em là may mắn của thầy trò mình.
Nghe vậy, tôi nói với thầy: - Suốt đời đi khắp đất nước, làm các công trình để làm gì, trong khi có đôi đồng thù lao thầy mang cho hết các cán bộ, nhân viên quản lí dự án... Sao không ở nhà cho khỏe thân.
Thầy dừng lại trên vỉa hè, nén hơi thở mệt nhọc, dịu dàng nói với tôi:
- Công trình của thầy thiết kế rẻ nhiều lần, hiệu quả cao hơn nên các địa phương ít tin dùng do định kiến đồ quá rẻ có chất lượng thấp, không an toàn. Chỉ khi họ bó tay, thầy mới được mời chủ trì thiết kế... Nếu thầy không đến những nơi khó khăn, tính toán thiết kế, thuyết phục các cán bộ ở đó thì chẳng ai làm. Thu được đôi đồng, thầy thưởng cho những người dũng cảm vì nước vì dân, có xứng với trách nhiệm, sự giúp đỡ của họ đâu...
Đến nay, thầy đã viết và xuất bản 25 ấn phẩm, trong đó có 20 ấn phẩm là các loại giáo trình các môn học, tài liệu tham khảo chuyên ngành, 2 tập sổ tay kĩ thuật (viết chung) 2 tiêu chuẩn kĩ thuật ngành Thủy lợi, 1 tập thơ và in chung trong 2 tuyển tập thơ. Viết 83 bài báo trong đó có 8 bài đăng trong các tạp chí nước ngoài.
Quê ở xóm Hàng, làng Thuần Hậu, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, giáo sư tiến sĩ Lương Phương Hậu là hậu duệ đời thứ 17 của Trạng Lường - Lương Thế Vinh.
Với những đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, khoa học và các công trình phục vụ sản xuất, đời sống, thầy đã được phong giảng viên cao cấp, danh hiệu Nhà giáo Ưu tú, được Nhà nước tặng huân chương Lao động hạng Ba năm 1991, hạng Nhì năm 2001...
Không chỉ đến 18 quốc gia để học hỏi, mang kiến thức về cho đất nước. Đi hết các nhánh hệ thống sông Hồng, tất cả các sông lớn ở miền trung và hệ thống sông Hậu, thầy đã đi khảo sát rất nhiều vị trí bờ biển và đến 8 cửa biển của nước ta để thực hiện 13 đề tài khoa học cấp nhà nước, 6 đề tài cấp bộ, 13 đề tài phục vụ dự án đầu tư.
Vòng đời công trình: lập dự án đầu tư, thiết kế kĩ thuật, thiết kế thi công, thi công và sau khi khánh thành: vài năm phải duy tu, chục năm trùng tu và vài chục năm đại tu. Nếu là công trình vĩnh cửu, sau 50 năm sẽ hư hỏng, phá đi làm lại công trình mới hiện đại hơn. Chỉ những công trình trở thành biểu tượng văn hóa, ghi dấu ấn một thời như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cầu Long Biên, Nhà thờ Đức bà Sài Gòn, Dinh Độc lập… mới được người đời giữ cho trường tồn. Công trình do giáo sư Tiến sĩ Lương Phương Hậu chủ trì thiết kế tồn tại hơn ba chục năm, không cần tiền sửa chữa, nay khoác màu thời gian, rêu phong, cũ đi và hòa vào cảnh quan như một bộ phận của thiên nhiên trở nên thân thiện, tươi đẹp, với thời gian, các công trình góp phần tạo ra văn hóa mới cho cư dân bản địa và sẽ tồn tại lâu dài do trở thành một bộ phận của văn hóa nơi công trình sinh ra để phục vụ con người.
-------------
(1) Kênh mồi là đoạn kênh có bề rộng và chiều sâu vừa đủ để đưa lượng nước gây xói mở rộng và đào sâu thành đoạn sông mới.
(2) Cao trình là thuật ngữ đo đạc, chỉ độ cao so với mực nước biển trung bình đo đạc trong nhiều năm gọi là mốc cao độ gốc (0m). Trước đây, các công trình ở miền Nam sử dụng mốc hải đồ của Hoa Kì xây dựng (Mốc cao độ gốc (mốc 0) ở Mũi Nai, Hà Tiên, Kiên Giang (nay thuộc tỉnh An Giang) thuộc vùng biển phía Tây Việt Nam hay còn gọi là Vịnh Thái Lan. Cao trình -1,0m là thấp hơn mặt nước biển trung bình mốc Mũi Nai 1m.
(3) Cao trình - 5,5m: là thấp hơn mặt nước biển trung bình mốc Mũi Nai 5,5m.