Sáng tác

Rắn. Truyện ngắn của Lưu Dĩ Sưởng (Trung Quốc)

Lưu Dĩ Sưởng
Văn học nước ngoài
08:00 | 29/01/2025
Baovannghe.vn- Lưu Dĩ Sưởng (1918 - 2018), vốn tên Lưu Đồng Dịch, tự Xương Niên, quê quán Triết Giang, sinh ở Thượng Hải, là tiểu thuyết gia nổi tiếng, giáo sư danh dự Đại học Mở Hongkong. Năm 2001 ông được Chính quyền Đặc khu hành chính Hongkong trao Huân chương Danh dự, làm Hội trưởng liên hội tác gia Hongkong. Ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ năm 1936, với đa dạng thể tài: tiểu thuyết, tản văn, thơ, bình luận… Truyện ngắn “Rắn” dưới đây được ông sáng tác vào năm 1978, dựa trên cảm hứng từ truyền thuyết dân gian “Bạch xà truyện” của Trung Quốc. Truyện ngắn “Rắn” được tuyển chọn vào tuyển tập “100 truyện ngắn tiêu biểu trong 100 năm (1901-2000) của 100 tác giả Trung Quốc”.
aa

1.

Trên đùi phải Hứa Tiên có một cái sẹo, to bằng cái chén uống rượu. Có người hỏi: “Bị mụn nhọt gì à?”, chàng chỉ lắc lắc đầu, không chịu nói ra sự tình. Kì thực, đó cũng chẳng phải là chuyện gì đáng phải hổ thẹn cả, có nói ra cũng chẳng mất mặt gì. Chàng không nói, chỉ vì câu chuyện hơi kì quái. Hồi ấy, chàng mới vừa tròn mười một tuổi, đi bắt dế trong bụi cỏ, bắt được con dế rồi, liền bỏ vào trong cái ống tre, sung sướng dâng trào, chạy như bay về nhà. Trên con đường qua cánh đồng, một con rắn trắng nằm vắt ngang, dài đến hơn năm thước. Chàng phóng mình nhảy qua nó, về đến nhà, đùi phải liền tấy đỏ, mới đầu còn không cảm thấy gì, sau đó thì đau đến không chịu nổi. Thầy lang lấy thuốc bôi cho, chỗ sưng dần dần xẹp đi. Đến lúc khỏi hẳn, vết thương để lại một cái sẹo, to bằng chén rượu. Từ đó, mỗi khi trông thấy những vật như một sợi dây chão to, hay dải vải dài, là chàng lại sợ hãi đến hồn bay phách lạc.

Rắn. Truyện ngắn của Lưu Dĩ Sưởng (Trung Quốc)
Minh họa Hoàng Trúc

2.

Thanh Minh. Hứa Tiên đi tảo mộ về, men theo con đường núi đến bên hồ. Tây Hồ vốn đã đẹp, Tây Hồ trong tiết Thanh minh lại càng đẹp hơn. Đối diện phía trước, có mây đen phủ kín đỉnh núi. Đàn chim bay chấp chới trên không. Cuồng phong chợt nổi lên, bao nhiêu hoa hoa cỏ cỏ đều chao đảo run rẩy dường có ý hoang mang kinh hãi. Tiết Thanh minh tựa hồ không thể không có mưa vậy. Mưa rồi! Mưa gõ xuống mặt hồ, phát ra những tiếng sàn sạt chói tai, tựa như bỏ rau vào chảo dầu. Chàng mong thấy một chiếc thuyền và một chiếc thuyền nhỏ đã lắc lư chèo đến. Lên thuyền. Thuyền chậm rãi đi trên mặt nước. Trong lúc chàng đang lấy tay áo phẩy những giọt nước còn bám trên người thì nghe có tiếng gọi “Đò ơi! Đò ơi!” phá vỡ tiếng mưa vây quanh, thật trong thật giòn, vô cùng cuốn hút. Trên bờ có hai người con gái. Hứa Tiên ghé mắt liếc trộm, không thể không kinh ngạc trước vẻ xinh đẹp của đối phương. Người chèo đò chống thuyền cập vào gần bờ. Hai người con gái lên thuyền rồi bước vào trong khoang. Bốn mắt gặp nhau, tim như hươu nhảy. Lá liễu như tơ rủ phất nhẹ trên mái vòm khoang, con thuyền chèo đi giữa màn mưa mờ mịt. Cuộc trò chuyện được bắt đầu bằng những câu thoại ngắn ngủi giản dị. Chàng nói: “Mưa to quá.” Nàng nói: “Mưa to thật.” Bên ngoài khoang thuyền là bức tranh mưa xuân, màu sắc trong tranh đang theo đuổi một ý tưởng hình tượng. Sắc màu phong cảnh vốn rất nồng nàn, phút chốc đã bị cơn mưa lớn tẩy thành mờ nhạt. Cây cối dùng sự xanh tươi để ca ngợi sự sống. Tháp Bảo Thục hốt nhiên chẳng thấy đâu nữa. Chỉ có tiếng cười khúc khích trong trẻo và giòn giã khiến người ta phải mến thích. Gió đưa những sợi mưa. Những sợi mưa nhảy múa trong làn gió. Người lái đò chợt nổi hứng, cất giọng hát vang mấy câu sơn ca. Có ai chợt nghĩ ra một câu hỏi: “Trăng vỡ có tròn lại ở dưới Tam Đàm không nhỉ?” Bạch Tố Trinh cúi đầu, lặng im không nói. Cuộc đối ẩm trong sân nhà dưới bốn bức tường cao vây quanh là chuyện của ngày thứ hai. Ngày thứ hai, khi ánh nắng chiều tà còn rơi rớt lại phủ vàng lên tường lên cửa, trên đôi ủng của Hứa Tiên vẫn còn nhuộm đầy bùn đất của ngày hôm qua. “Chàng tới đó ư?” Mùa hương hoa từ trong cửa ngào ngạt tỏa ra. Hứa Tiên bước vào đại sảnh, ngồi xuống chiếc đôn sứ. Ngoài trà Long Tỉnh được pha bằng nước suối, Bạch Tố Trinh còn tự tay rót một chén rượu. Ánh nến soi vào chén rượu, chén rượu soi bóng người đang mỉm cười. Uống nụ cười ấy rồi, ánh mắt bắt đầu mơ hồ. Lửa đã gặp vàng, bèn trở nên biến hóa thần kì. Chuyện hoang đường được khởi nguồn từ sau chén rượu, tất cả đều thật ngọt ngào.

3.

Lửa nến bập bùng. Đuốc hoa chẳng thể thổi tắt. Sự ham muốn tìm kiếm một định nghĩa khác trên đầu ngọn lửa. Những tiếng thì thầm trong màn, dẫu đứa nha hoàn có ghé sát tai vào khe cửa cũng không nghe rõ được. Đó là những thanh âm của khoái lạc. Đứa nha hoàn tinh nghịch biết Bạch Tố Trinh trước giờ vốn yêu mến cảnh trí Tây Hồ dễ lại chẳng bằng lòng đến Tây Hồ để tìm lấy cảm giác thiên đường! Mùi hương từ trong cửa sổ thoảng ra, chưa hẳn là từ chiếc lư hương đồng cổ. Gió đêm lay động rèm song. Từ ngoài tường vẳng lại tiếng thanh la của người cầm canh. Họ vẫn còn chưa ngủ.

4.

Hứa Tiên mở hàng thuốc, những người bị ốm bèn trở nên nhiều hơn. Những người hàng xóm đều bảo Bạch Tố Trinh có số vượng phu. Hứa Tiên cười không khép nổi miệng. Tiệm thuốc ăn ra làm nên thì phải vui mừng chứ. Nhưng, niềm vui sướng lớn nhất lại là từ lời thì thầm bên tai của Bạch Tố Trinh. Chỉ một câu nói rất nhẹ: “Thiếp đã có rồi!” Hứa Tiên vui mừng tưởng muốn nhảy lên được.

5.

Phía sau tiệm thuốc có một cái sân. Trong sân cây cỏ rậm rạp, lại có những chậu cảnh, rất nhiều hoa lá đẹp đẽ, có điều hơi hỗn tạp. “Cái sân này - Hứa Tiên thường vẫn nghĩ - nên dọn dẹp bớt một ít hoa cỏ cây cối đi.” Thế nhưng, cây cối và hoa cỏ vẫn càng ngày càng rậm rạp thêm. Hôm ấy, có người đến mượn cuốn sách thuốc của Hứa Tiên. Sách thuốc để ở gian nhà phía sau, phải đi qua sân mới tới. Lúc chàng đi ngang qua sân, có một con rắn phóng qua lối đi trên sân, lẩn vào bụi rậm. Hứa Tiên bỗng thấy tối sầm trước mắt, rồi ngã vật xuống đất không biết gì nữa. Toa thuốc “Định kinh tán” không hẳn là hiệu quả, nhưng sau cơn kinh hãi, Hứa Tiên cũng dần hồi tỉnh lại. Lúc nha hoàn đỡ Hứa Tiên vào trong buồng, chàng nhìn thấy vẻ lo âu trên gương mặt Bạch Tố Trinh. “Con … con rắn ấy …” Chàng muốn nói là “con rắn ấy chui vào trong đám cỏ”, nhưng mới nói xong mấy từ đó thì chàng đã không còn sức nói nốt ra mấy từ còn lại nữa. Chàng đang run rẩy. Một ấn tượng đáng sợ chiếm lĩnh hết mọi cơ quan suy nghĩ. Con rắn ấy dẫu chưa làm tổn thương gì đến chàng, nhưng đã khiến chàng cảm thấy vô cùng bất an.

Con rắn ấy không xuất hiện lại nữa. Nhưng đối với chàng, con rắn ấy lại có mặt ở khắp mọi nơi. Để giúp chàng thoát khỏi ấn tượng đáng sợ ấy, Bạch Tố Trinh đã bảo đầy tớ đi mời người bắt rắn đến. Người bắt rắn đòi một lạng bạc, Bạch Tố Trinh cho ông ta hẳn hai lạng. Sau khi người bắt rắn chỉ bắt được trong sân mấy cái cành khô, liền phán một câu: “Trong sân không có rắn!”, rồi thủng thẳng vào tửu lâu đối diện bên kia đường uống rượu. Bạch Tố Trinh thở dài một tiếng, lại bảo đầy tớ đi mời một người bắt rắn khác đến. Người này đòi hai lạng bạc, Bạch Tố Trinh biếu ông ta hẳn ba lạng. Tay nghề thành thục của người bắt rắn ấy cũng chưa thu được hiệu quả như dự tính, chỉ còn cách nói trong sân không có rắn. Bạch Tố Trinh khuyên Hứa Tiên không cần phải lo sợ, Hứa Tiên nói: “Chính mắt ta trông thấy mà, con rắn ấy chui vào trong đám cỏ rậm.” Bạch Tố Trinh bảo đầy tớ nhổ hết cây cỏ trong sân đi. Trong sân không có rắn. Rắn ở trong trí não của Hứa Tiên. Bạch Tố Trinh tự tay đun một bát trà thang lớn cho chàng uống. Trước mắt chàng có một cái bóng dài không ngừng lay động. Chàng mơ thấy một giấc mơ. Trong mơ, Bạch Tố Trinh cầm một cây trường kiếm đến núi Côn Lôn lấy trộm cỏ linh chi. Thứ cỏ ấy chỉ mọc ở nơi tiên cảnh. Tiên cảnh có thiên binh, thiên tướng. Bạch Tố Trinh đi đến tận nơi xa xôi như thế để trộm cỏ, chỉ để chữa bệnh cho chàng. Chàng đã ốm sắp chết rồi. Không có cỏ linh chi, chàng sẽ phải đi gặp Diêm vương. Bạch Tố Trinh đọ kiếm với hạc trắng. Bạch Tố Trinh đọ kiếm với hươu vàng. Lúc không thể giành được chiến thắng bằng thanh kiếm, nàng chỉ còn cách dùng nước mắt để có được sự thông cảm và thương tình của Nam Cực Tiên Ông. Cuối cùng nàng đã có cỏ tiên cứu sống được Hứa Tiên… Hứa Tiên tỉnh dậy khỏi giấc mơ, mở choàng đôi mắt sợ hãi, thấy Bạch Tố Trinh vẫn ngồi nguyên ở bên giường, chàng chợt sinh nghi, cất giọng nói khản đặc hỏi: “Nàng là ai?”

6.

Sau khi khỏi bệnh, Hứa Tiên vẫn không thể chế ngự được nỗi sợ hãi xâm chiếm trong lòng mình. Mỗi lần phải qua lối đi trên sân, chàng luôn cảm thấy bất cứ lúc nào cũng có thể bị tấn công từ bất cứ hướng nào. Sự quan tâm của Bạch Tố Trinh khiến chàng trở nên hoài nghi. Chàng không tin rằng thế gian lại có một người con gái nào toàn mĩ.

7.

Vì thế mà đã có một ngày đen tối thế này: Trong khi Bạch Tố Trinh ở nhà gói bánh ú cho tết Đoan ngọ, Hứa Tiên đang đi trên đường thì bị một hòa thượng tay cầm thiền trượng chặn đường lại. Vị hòa thượng tự xưng tên là Pháp Hải, có đôi mắt phát quang. Pháp Hải hòa thượng nói: “Bạch Tố Trinh là yêu quái.” Pháp Hải hòa thượng nói: “Bạch Tố Trinh là một con rắn.” Pháp Hải hòa thượng nói: “Xà tinh khổ luyện trong núi sâu đã một ngàn năm, không muốn làm thần tiên.” Pháp Hải hòa thượng nói: “Suốt ngàn năm qua, rắn thường nhìn thấy bóng của chính mình soi dưới suối trong nên không thích thân hình của mình nữa.” Pháp Hải hòa thượng nói: “Yêu quái không chống nổi sự hấp dẫn của cõi hồng trần, mong muốn được nếm trải hết mùi vị chua ngọt trong đời.” Pháp Hải hòa thượng nói: “Cô ta đã đem đạo hạnh cả ngàn năm để đánh đổi lấy niềm hoan lạc trong cõi nhân gian.” Pháp Hải hòa thượng nói: “Hoan lạc nhân gian đã khiến cô ấy quên mất bản thân mình là yêu quái. Cô ấy không thích suối trong, với gió đêm, và cây cỏ trong non sâu nữa.” Pháp Hải hòa thượng nói: “Ngày mai là tết Đoan ngọ, hãy cho cô ấy uống một chén rượu Hùng hoàng, cô ấy sẽ hiện nguyên hình.” Pháp Hải hòa thượng xin chàng quyên cúng.

8.

Mái chèo theo tiếng trống mà đua bơi. Những chiếc thuyền rồng ganh đua nhau giành chiến thắng trên mặt nước dưới cái nắng như lửa đốt. Bạch Tố Trinh không đi xem hội, chỉ sợ mệt nhọc quá sức lại ảnh hưởng đến thai nhi. Hứa Tiên vốn có thể đi xem, nhưng chàng lại không đi. Tiệm thuốc không mở cửa, chàng lại bận rộn hơn cả lúc bình thường. Chàng trước nay vẫn hay sợ hãi. Có bánh ngũ độc rồi, có hồ lô cát tường rồi, đảm lượng cũng mạnh mẽ lên một chút. Sáng sớm tinh mơ, cỏ xương bồ và ngải đã cắm đầy quanh khuôn cửa, lại thêm bùa chú, thì bất cứ thứ độc hại nào cũng phải lánh cho xa. Ngày hôm nay, tâm tư chàng đặc biệt căng thẳng. Ngoại trừ việc xua đuổi tà độc ra, chàng còn muốn tìm kiếm lời đáp cho một câu hỏi. Vợ của chàng rốt cuộc có phải là một con yêu tinh ham muốn niềm hoan lạc nhân gian hay không? Chàng đem bức tranh Chung Quỳ tróc quỷ dán lên trên cửa để làm “môn cấm”, hòng cấm cố Bạch Tố Trinh ở trong buồng. Nhưng thái độ của Bạch Tố Trinh vẫn bình thản như thường, chẳng sợ hãi chẳng tránh né gì. Vì vậy, rượu Hùng hoàng trở thành vật trấn tà hữu hiệu duy nhất. Lúc hai người ngồi đối diện với nhau, Hứa Tiên rót một chén rượu đầy, ép Bạch Tố Trinh phải uống cạn. Bạch Tố Trinh nói: “Vì con, thiếp không thể uống được.” Hứa Tiên nói: “Vì con, nàng tất phải uống.” Bạch Tố Trinh không chịu uống. Hứa Tiên mặt đanh lại tức giận. Bạch Tố Trinh sợ nhất là Hứa Tiên nổi giận, chỉ còn cách nâng chén nhấp một ngụm. Hứa Tiên uống cạn một chén rượu, bắt nàng cũng phải uống cạn. Nàng nói: “Uống nhiều quá sẽ say mất.” Hứa Tiên nói: “Say rồi thì lên giường mà nghỉ.” Bạch Tố Trinh ngửa cổ, uống một hơi hết rượu trong chén. Đầu rất nặng, cảnh vật trước mắt bắt đầu quay vòng vòng. “Thiếp thấy hơi khó chịu - Nàng nói - Thiếp phải về buồng nghỉ đây.” Hứa Tiên đỡ nàng vào buồng. Bạch Tố Trinh nói: “Để thiếp yên tĩnh ngủ một giấc, chàng cứ lên nhà trước mà xem bọn người ở đánh bài.” Hứa Tiên hỉ mũi, hừ một tiếng, rồi ngất ngư đi qua sân lên nhà trước. Hơn một canh giờ sau, chàng lại ngất ngư đi qua sân quay vào nhà sau, nhẹ nhàng đẩy cánh cửa khép hờ, nhón chân đi đến bên giường. Trên giường có một con rắn, khiến chàng kinh hãi tưởng hồn lìa khỏi xác, chạy vội ra khỏi cửa buồng. Ngoài cửa đã thấy Bạch Tố Trinh đang đứng. “Làm sao thế?” “Trên giường có con rắn!” Bạch Tố Trinh giật con hổ bện bằng cây ngải và thanh kiếm bằng cỏ bồ cắm trên khung cửa xuống, sải bước đi vào buồng, ngỡ là trên giường có rắn thật. Nhưng trên giường chỉ có dải thắt lưng vừa cởi ra để đó!

9.

Hứa Tiên đến chùa Kim Sơn tìm Pháp Hải hòa thượng. Vị sư tiếp khách nói: “Pháp Hải phương trượng đã viên tịch từ tháng trước rồi.” Hứa Tiên nói: “Hôm trước tôi còn gặp hòa thượng trên phố mà?” Vị sư tiếp khách nói: “Người mà ngài gặp, chắc chắn là một hòa thượng khác.”

Châu Hải Đường

Dịch từ nguyên bản tiếng Trung

Đêm không - Thơ Trần Anh Thái

Đêm không - Thơ Trần Anh Thái

Baovannghe.vn- Thềm se sương lạnh bóng người/ Thánh thất âm u
Sực nhớ Kinh Bắc - Thơ Nguyễn Xuân Thâm

Sực nhớ Kinh Bắc - Thơ Nguyễn Xuân Thâm

Baovannghe.vn- Sực nhớ vùng Kinh Bắc/ Năm ngoái Tết về qua
Nắng nhuộm mình cây - Thơ Vũ Quần Phương

Nắng nhuộm mình cây - Thơ Vũ Quần Phương

Baovannghe.vn- Nắng nhuộm mình cây chiều ở lại/ nắng đánh dấu một triền đê hoa dại
Vua làng - truyện ngắn của Hoa Ngõ Hạnh

Vua làng - truyện ngắn của Hoa Ngõ Hạnh

Baovannghe.vn - Hoa Ngõ Hạnh tên thật là Nguyễn Minh Sơn. Sinh ngày 20/12/1972 ở Trung Phước, Quế Sơn, Quảng Nam. Tốt nghiệp trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Huế.
Đất khách. Truyện ngắn của Châu Hoài Thanh

Đất khách. Truyện ngắn của Châu Hoài Thanh

Baovannghe.vn- Mấy năm đất khách quê người, bao lần chuyển việc cũng bấy lần chuyển nhà. Gặp đủ các kiểu người nhưng không ai giống cô ấy. Bữa đầu cứ một hai, để cô giặt và gấp đồ hộ cho. Lành tủm tỉm hốt đống đồ dơ ném vào rổ. Còn Sen thì...