![]() |
| Minh họa Trần Ngọc Quỳ |
Khi đặt một phòng tại khách sạn Cosmos, hắn tin rằng chỗ này là đúng nơi rồi. Hắn đã bắt đầu nghiên cứu từ khá lâu trước kia và theo đuổi nó một cách cẩn thận và nghiêm túc. Hắn tự tin chọn một căn phòng ở tầng cao, nơi có góc nhìn khá đẹp về thành phố nhộn nhịp bên dưới.
Vừa bước vào, hắn đã nhận ra mùi hương ấy ngay lập tức nhưng không hành động gì. Hắn treo quần áo gọn vào một chỗ và đặt vật dụng cá nhân lên cái quầy bằng đá hoa cương trong phòng tắm. Hắn dừng lại, nhìn xuống thành phố xuyên qua những ô cửa sổ cách âm. Những hình người nhỏ xíu đi vội vàng. Đàn ông hói đầu và đàn ông chống nạng; đàn ông mặc jeans và đàn ông ở trần rách rưới. Xe cứu thương. Con lừa. Đèn giao thông. Vậy ra đây là tận cùng thế giới, hắn lẩm bẩm. Sau đó, hắn gọi phục vụ phòng. Hắn muốn thứ gì đó nặng đô và truyền thống. Thứ gì đó đầy nhục cảm. Thịt thú rừng nấu xốt táo đen. Thịt thỏ với ác-ti-sô và bắp cải xoăn. Gan ngỗng. Một ít sâm-panh.
Hắn đang nằm nghỉ thì chuông reo. Một mảnh giấy nhắn tuồn qua khe cửa. Tránh xa ra. Ngươi sắp không thể thoát được nữa rồi. Hắn vuốt tờ giấy, đưa lên môi và mỉm cười một mình. Hắn mở một trong những cái túi, lôi ra khoan, búa, tua-vít rồi đặt chúng lên sàn tủ quần áo được trải thảm. Một bảo tàng nhỏ. Một kiểu trưng bày. Hắn nhìn đống dụng cụ với vẻ xa cách rồi vội vã cất lại chúng vào túi.
“Đây là lần đầu ngài đến đây phải không ạ?” Cậu trai trẻ mang bữa tối tới cho hắn hỏi. “Một lựa chọn lạ lùng.” Cậu ta nói khi đặt khay thức ăn lên bàn. Một luồng điện chạy dọc sống lưng hắn. Một đàn kiến bò trên gáy.
“Chắc ngài sẽ thích nó thôi.” Cuối cùng, cậu ta nói.
Ngay sau khi người phục vụ đóng cửa, hắn bắt đầu làm việc. Hắn để túi dụng cụ trở lại tủ, gạt quần áo vừa treo lúc trước ra khi tiến vào. Hắn cẩn thận dò dẫm trên các bức tường. Nghe thấy có âm thanh rỗng, hắn liền bỏ cái búa xuống và cầm tua-vít lên. Hắn quỳ gối, mồ hôi hột lấm tấm bên thái dương. Tấm gỗ ở chân bức tường bên phải dễ dàng bong ra. Hắn cúi xuống. Hắn ngồi xổm. Cuối cùng, hắn chui qua khe hở.
Hắn chưa chuẩn bị gì cho điều này. Hắn đã hình dung mình sẽ gặp cô trong một cái lồng, nhưng không phải là cái lồng lộng lẫy đến thế. Hắn từng tưởng tượng về cô hàng ngàn lần: lom khom, trong dáng dấp của một đứa trẻ hoang dã bị tách khỏi loài người từ khi sinh ra. Nhưng giờ đây, thay vào đó, cô đang thong dong ngồi đu đưa, nhìn hắn qua những chấn song bằng vàng. Hắn nuốt thứ mà hắn nghĩ là nước bọt. Nó có vị của lau sậy đầm lầy, của cá thời tiền sử và của thịt thối.
“Tôi tưởng cô không tồn tại chứ.” Cuối cùng, hắn nói.
“Tôi lại tưởng người không tồn tại là anh kia.” Cô đáp, phát âm từng chữ một cách bình thản, chậm rãi. Trong giọng nói của cô là tiếng lá khô, tiếng gỉ sét và tiếng xương gãy.
Tôi nghe thấy tiếng nước chảy khi mở khóa cửa. Em ấy ở đúng nơi tôi nghĩ sẽ tìm thấy em: bên trong một căn phòng tắm bé xíu, tay vẫn để dưới vòi nước. Em nhìn chằm chằm thứ gì đó trên tấm gương mà tôi không thể nhìn thấy. Em nhìn thứ gì đó thì sẽ nhìn say sưa. Em chỉ nhận ra tôi ở đó khi tôi tắt nước và đặt khăn bông lên đôi tay ửng đỏ của em.
“Nhìn xem em vừa làm gì kìa.” Tôi càm ràm. “Trông như mấy con gà luộc quá lâu ấy.” Tôi nói thêm, chạm vào làn da ướt. Em nhìn tôi, nâng tay phải lên rồi dừng lại. Mu bàn tay. Lòng bàn tay. Móng tay. Khớp ngón. Em xem xét tất cả.
“Tay.” Em nói bằng giọng gần như chỉ vừa đủ nghe. “Họ cắt tay rồi.”
“Ừ.” Tôi đáp khi dìu em quay về phòng. Lúc tắt tivi, tôi nghe thấy tiếng xe cứu thương trên phố. Tôi đỡ em lên giường. Em chui vào những tấm chăn flannel rồi ngay lập tức chỉ về phía cái lược trên bàn trang điểm. Em vừa chải mớ tóc dài màu xám của mình vừa ngâm nga một điệu nhạc tôi không nhận ra. Vĩnh cửu là bao lâu? Tay em run rẩy, miệng hơi hé. Hình dáng hộp sọ.
“Chân.” Em nói, đột ngột quay sang tôi. “Lần này họ cắt cả chân nữa.”
“Ừ.” Tôi đáp, đặt đôi dép lê của em bên cạnh giường. “Chị nghe tin rồi.” Tôi nhặt mấy cuốn tạp chí dưới sàn lên và kéo rèm lại. Đèn giao thông. Tiếng còi xe và tiếng giày trên vỉa hè. Tôi chuẩn bị tắt đèn thì em nói: “Cả tóc nữa. Họ cũng cắt tóc luôn.”
Em nhìn tôi từ xa. Em đang ở giữa một sa mạc đầy xương trắng, cố gắng nhìn rõ bóng hình của tôi từ khoảng cách xa. Em nhăn mặt. Khi em đã ngủ, tôi ra phòng khách, gác chân lên. Tôi mệt lử như bà hàng xóm. Tôi cạn kiệt năng lượng. Chúng ta thực sự cần phải sống lâu đến thế sao? Tôi nhìn lên trần nhà. Có lẽ tôi đã cầu nguyện đôi chút. Và rồi tôi gom đủ sức để đứng dậy. Tôi về căn hộ của mình ở kế bên. Chìa khóa. Ổ khóa. Tivi. Tôi lục tủ xem có gì ăn không. Vài cái bánh quy cũ. Vài miếng khoai tây chiên. Tôi mở một chai Coca. Những cô gái ấy, tôi nghĩ khi ngã lên ghế sofa, gác chân lên ghế đôn bọc đệm, những cô gái thậm chí còn không có thời gian để mệt như thế này. Nếu họ có chút thời gian, tôi chợt tin chắc, hẳn là họ đã gác chân lên ngay tại đây. Nếu họ sống sót. Ngay tại đây. Tối nay.
Ả đã rời đi nhiều năm. Ả học được cách phân biệt các loại nấm, loại nào ăn được và loại nào có độc. Ả tắm rửa dưới ao hồ, sông ngòi. Vũng nước. Nhà tắm công cộng. Ả nhai cả vỏ cây. Một kẻ nhặt nhạnh đồ ăn. Một tay bụi đời. Một người đàn bà điên của rừng xanh.
“Sao mẹ lại làm thế?” Con trai ả hỏi khi ả trở về.
Có những mùa hè ả đi chân đất. Ả diễn dịch bài hát của những chiếc lá, nhất là khi chúng khô đi. Ả dừng lại. “Để suy nghĩ.” Ả đáp, nhẹ nhàng đặt tay mình lên tay con. “Để có thời gian để suy nghĩ.” Ả nhấn mạnh. Đôi mắt ả mở to.
![]() | |
|
Họ biết mưa. Họ có xu hướng nhớ lại những điều mình biết rõ: đặc trưng của mưa. Màu sắc. Hình dạng. Nhiệt độ. Đó là thứ tri thức được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng những lời thì thầm. Rất ít người từng thấy nó (chúng ta có rất ít dữ liệu về quan niệm của họ, chẳng hạn như quan niệm về mưa), nhưng ai cũng biết về nó.
Có một truyền thống thơ ca mạnh mẽ trong thứ mà ta có thể mô tả là văn chương của họ. Những cuốn sách về mưa: những tấm vải bông nhẹ có kích thước bằng con người thấm loang lổ cái mà họ gọi là “vết mưa” được nối với nhau bằng vòng gỗ. “Nếu anh chạm vào chúng,” họ nói “anh sẽ biến thành nước.” Không giải thích gì thêm.
Mối liên kết của họ với mưa tiết lộ thông tin về họ: trong khi chúng ta dùng áo mưa và ô để che chắn cơ thể do bản năng tự vệ vốn có thì họ ngược lại, bỏ mũ ra, ngửa mặt nhìn mây, dang tay, há miệng trong một tư thế mà đa phần mọi người coi là mang tính tôn giáo. Môi họ mở ra. Chân họ cách mặt đất vài tấc. Sự sùng kính. Họ có thể ngắm các giọt mưa trên khung cửa sổ hàng giờ liền.
Mưa phùn là một từ mà họ phát âm rất cẩn trọng. Họ có thể lắng nghe giọng nói vọng tới từ những nơi xa xôi suốt cả ngày. Họ thì thầm.
Cô trở thành người trông coi ngọn hải đăng sau khi chồng qua đời. Cô chôn cất anh ở sân sau, gần ruộng ác-ti-sô và hoa hướng dương. Nói cô không nhớ anh là nói dối. Cô thậm chí từng nghĩ tới việc quay lại đất liền. Nhưng bầu trời xám xịt và mỏng dính. Mong manh như bánh mì. Còn chân trời thì quá sắc bén. Cô dở dài khi cắt bấc đèn, đánh bóng các thấu kính, châm lại dầu. Khi ngọn hải đăng không có người trông, cô vẫn tiếp tục cắt bấc đèn, đánh bóng các thấu kính và châm thêm dầu. Cô thời dài. Khách du lịch đứng nhìn với vẻ đầy khâm phục. “Kia kìa.” Họ nói, cố gắng chỉ và đúng nơi trên bầu trời mà cô đang nhìn thẳng vào mắt.
Một thế giới bất khả bị chôn vùi trong tuyết.
Một người đàn ông, một người đàn bà, một đứa trẻ, và một con nai sừng tấm: những vết đốm trên phong cảnh. Một con sông từng mang tên Lerma. Hoặc là Pripiat.
Bóng của nó trên trang giấy này khi đang bay.
Dấu chân bé xíu của ai đó, hoặc của thứ gì đó, kéo lê theo sau.
James Turrell nói: “Tôi luôn đưa yếu tố thời gian vào tác phẩm. Có một số cách để làm điều đó: một là để thời gian xuất hiện cùng với cách đôi mắt mở ra; hai là sự đồng nhất tổng thể mang cái nhìn đờ đẫn vô hồn; ba là sự thay đổi. Tại Skypaces là sự thay đổi.”
Vì thế, tôi bước vào Skyspaces, lặng yên nằm ngửa, bất động như một bức tượng bị lãng quên hoặc một cái xác, nhìn lên khoảng mở trên cao.
Một con diều hâu bay qua.
Một đám mây hóa thành mây rồi biến thành hư không.
Màu trắng.
Hai cái máy bay.
Và âm thanh này.
Những từ ngữ nói với tôi bằng tông giọng thấp ngay bên tai tôi. Những câu nói như lời thì thầm. Hoặc mũi tên.
Sinh vật ấy bỏ lên đầu gối tôi khi tôi không thể cử động. Và mắt tôi mở ra như thế. Nó bước lên mép ngực tôi, giơ cánh tay lên tỏ dấu hiệu chiến thắng hoặc chiến tranh. Và sợi dây, quấn quanh tay chân tôi, ghim xuống sàn, làm tôi tê liệt như thế. Nó lại gần miệng tôi. Nó có hôn tôi không?
Một mẩu hội thoại.
Những dấu vết.
Turrell sinh năm 1943.
Một tỉ phú lập dị thiết kế và xây một cái bể bơi lớn ở sau nhà. Bà ta sơn nó màu xanh lam. Lúc ở một mình, bà thì thầm từ “to nhất”. Đó là một ngày tháng Sáu sáng sủa khi phóng viên hỏi bà tại sao. Bà chỉnh lại kính râm và hơi quay đầu, đáp: “Anh không nghe thấy chúng sao?”
Đinh Phương Ly
Dịch từ tiếng Anh trong Tank Magazine
1. James Turrell là một nghệ sĩ người Mỹ nổi tiếng với các tác phẩm nghệ thuật sắp đặt sử dụng ánh sáng và không gian.