Dáng thầy thấp, đậm. Tóc bạc, cứng như rễ tre. Thầy thường mang bên mình chiếc cặp to sụ. Hai vạt áo của thầy luôn bóng nhẫy. Mồ hôi, bụi đường và cả bụi phấn bám mấy tầng vì thầy viết bảng xong, thường quệt tay vào. Giọng thầy rất truyền cảm. Thầy dạy chúng tôi môn Hán Nôm. Tôi học thầy được ít thời gian. Nhưng những gì thầy dạy, sao tôi không quên?
|
Một hôm, vào lớp, thầy dạy chữ “Hòa Bình”. Tôi vừa qua 5 năm chiến tranh, nên rất hào hứng. Thầy viết lên bảng hai chữ “Hòa Bình” bằng chữ Hán. Rồi thầy phân tích. Chữ “Hòa” nghĩa là cây lúa, tượng trưng cho sự ấm no. Cạnh chữ “Hòa” là chữ “khẩu”, nghĩa là cái miệng, tượng trưng cho sự ăn nói. Hai chữ đó ghép lại, gợi lên hình ảnh mọi người cùng ăn một mâm cơm, trò chuyện vui vẻ. Còn chữ “Bình” tượng trưng cho sự phân chia đồng đều. Hai chữ ghép lại với nhau tượng trưng cho sự thuận hòa, yên ổn.
Cái sự đơn giản này mà giờ tôi mới thấm thía. Tôi được về khi cuộc chiến bên Campuchia chưa kết thúc. Đồng đội tôi vẫn phải ngày đêm chiến đấu, hy sinh. Họ luôn thiết tha cầu mong hai chữ Hòa Bình. Dạo ấy, thầy bắt bọn tôi, tuy là sinh viên, nhưng giờ của thầy vẫn phải mang lọ mực và cái bút lá tre để viết chữ Hán, cho nó có các nét ngang, sổ, chấm, hất, phẩy, mác, gập và móc. Thầy không cho viết bằng bút máy hay bút bi.
Biết tôi là người lớn tuổi, từng trải qua lính, thỉnh thoảng thầy giữ lại trò chuyện. Một hôm, ở quán nước gần cổng trường, thầy bảo, chữ “Hòa Bình” còn có cách giải nghĩa khác. Thầy vẽ quẻ Ký Tế, nghĩa là Thủy ở trên và Lửa ở dưới. Đây là hình ảnh khi ta nấu ăn. Nước và Lửa trung hòa, nấu chín thức ăn. Hai mặt đối lập, nhưng cùng mục đích, tạo ra cái mới, là món ăn ngon. Đấy là cách giải thích của Kinh Dịch. Ngồi với thầy ít phút, uống vài chén nước chè, ăn mấy cái kẹo lạc, hút điếu thuốc lào mà thầy cho cả một bể học mênh mang. Lúc ấy, tôi mới chỉ là người đứng trên bờ.
Tôi vừa trở về sau cuộc chiến. Năm năm trước đó, chúng tôi nhập ngũ, đóng quân ở Hòa Bình. Từ hòa bình đi vào chiến trường K. Rồi từ chiến trường K trở về, mới hiểu chữ “Hòa Bình” như thế nào. Những hôm đạp xe từ Mễ Trì về nhà, lòng lại nhớ những đồng đội bên chiến trường K. Nơi đó đầy chiến tranh, chưa có hòa bình. Thỉnh thoảng lại nhận được thư đồng đội. Tôi lại viết thư trả lời. Đồng đội tôi là những người hiểu rõ chiến tranh nhất. Họ đối diện với kẻ thù, với cái chết. Không ai thấm thía nỗi đau bằng những người lính, sống trên lằn ranh sinh tử. Họ hiểu giá trị một ngày không tiếng súng. Họ luôn mong được trở về. Đi lại bình thường trên đường làng. Ăn bữa cơm cùng gia đình…
Tôi đã gặp nhiều bà mẹ ở Hà Nội, ở miền Trung. Các bà đều kể, từ khi con ra trận, sáng sớm ngày nào bà cũng thắp nhang cầu mong con được bình an. Những ngày cuối tuần, các bà mẹ lại rủ nhau đến các ngôi chùa lớn, thành tâm cầu nguyện, mong hòa bình sớm về với quê hương, mong các con chân cứng đá mềm, trở về lành lặn.
Có những đồng đội tôi trở về. Nhưng trên cơ thể vẫn còn mang những vết thương, vết sẹo của chiến tranh. Có người, tâm hồn rách nát. Đêm đêm, những giấc mơ hãi hùng vẫn bất chợt hiện về, làm họ bàng hoàng, tỉnh giấc giữa mông lung. Đó là những con người khát khao hòa bình nhất. Bình an trong tâm hồn. Thỉnh thoảng tôi qua nhà mấy người bạn thương binh. Các anh tụ tập. Uống rượu, tiêm morphin làm giảm những cơn đau nhức. Những lúc họ ở trong tình trạng này, chẳng có gì bù đắp được. Họ đã được sống trong hòa bình, nhưng vẫn bị những vết thương chiến tranh hạnh hạ. Cha mẹ, vợ con không biết, thường than phiền. Đôi khi, tôi bị ghép tội đồng lõa, dù đã tìm mọi cách giải thích.
Rồi các đồng đội tôi cũng giải tán. Ai về nhà nấy. Thằng Long mất một chân, vẫn đi xe máy được, chở thằng Hà mất hai chân. Chúng nó cười đùa: “Hai thằng có một chân vẫn đi xe máy ngon!” Đi trong hòa bình. Sống trong hòa bình. Họ hiểu và trân quý hòa bình hơn ai hết. Bởi họ đã từng sống sót trong hoàn cảnh chiến tranh. Họ đã từng cầu nguyện hòa bình để họ được về nhà. Trong những năm đằng đẵng bên chiến trường K, bao đồng đội tôi đã hát, đã cầu mong, đã ngã xuống khi giữa trưa, trong rừng Anlong Veng, nghe một anh lính cũ, quê Hải Dương, vừa đi vừa nghêu ngao. Không hiểu anh hát cho mình hay cho rừng cho đất, cho ta hay cho địch: Hoà bình ơi, chờ trông nhau như con chờ mẹ/ Chờ trông nhau như gió mùa hè/ Chờ trông nhau nắng đẹp tình quê/ Hoà bình ơi, ơi hoà bình ơi/ Ba mươi tuổi đời thoát từ vành nôi/ Ba mươi năm trời khổ đau nhiều rồi/ Về đây hỡi người ơi! Về đây hỡi người ơi… Họ không bao giờ kêu lên “Hòa bình đẹp lắm”. Những ngày đường phố rợp cờ hoa là để mừng chiến thắng. Và hôm nay, những lời cầu nguyện Hòa Bình tha thiết vang lên ở dải Gaza, ở Nga, Ukraine, trên biên giới Campuchia - Thái Lan… Hòa bình là bữa cơm đoàn tụ các thành viên gia đình. Hòa bình là bữa cơm bình dị. Đơn giản vậy thôi.