Sự kiện & Bình luận

Campuchia xứ sở nụ cười

GS.TS. Trình Quang Phú
Bút ký phóng sự
07:00 | 13/12/2024
Baovannghe.vn- Sau hai ngày thăm chụp ảnh về Phnôm Pênh, về hoàng cung nhân kỷ niệm 50 năm vua Sivowat cho xây điện chính của hoàng cung. Sang ngày thứ 3, chúng tôi bí mật tạm biệt Phnôm Pênh để đi về phía biên giới Tây Ninh và được ngồi sau các môtô đội giao liên của quân giải phóng để vào với chiến trường miền Nam…
aa

Bạn tôi, nhà báo Tạ Bảo được cử đi làm Trưởng đoàn chuyên gia Thanh niên giúp nước bạn Campuchia trong những ngày đầu hồi sinh. Sau mấy năm ở xứ chùa tháp trở về anh viết được một cuốn sách về đất nước Campuchia. Anh đưa bản thảo tôi đọc, bởi vì trong những năm anh ở Campuchia tôi mấy lần sang và cùng anh đi nhiều nơi ở Phnôm Pênh, Oudong và cả Siêm Riệp, dù khi ấy còn Khơ me đỏ rình rập. Anh muốn tôi góp ý chọn tên cho tác phẩm của anh. Những ngày ấy, ở Campuchia anh có một người bạn gái trong phong trào đoàn thanh niên, là một nạn nhân của chế độ diệt chủng, chị lúc nào cũng cười. Nụ cười của chị và nụ cười Bayon ở Angkor là dấu ấn thâm sâu trong chúng tôi, nên tôi đề nghị anh đặt tên cho cuốn sách là “Xứ sở nụ cười”.

Campuchia xứ sở nụ cười
Angko Wat biểu tượng văn hóa Campuchia. Nguồn: Internet

*

1. Bà Pênh và Phnôm Pênh

Tôi đến Phnôm Pênh lần đầu tiên là đầu tháng 6 năm 1969, ngày đó tôi được cử đi cấp tốc vào miền Nam để phục vụ đại hội đại biểu quốc dân miền Nam thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chúng tôi phải sang Quảng Châu đi máy bay vào Phnôm Pênh dưới danh nghĩa nhà báo. Sau hai ngày thăm chụp ảnh về Phnôm Pênh, về hoàng cung nhân kỷ niệm 50 năm vua Sivowat cho xây điện chính của hoàng cung. Sang ngày thứ 3, chúng tôi bí mật tạm biệt Phnôm Pênh để đi về phía biên giới Tây Ninh và được ngồi sau các môtô đội giao liên của quân giải phóng để vào với chiến trường miền Nam…

Sau này, tôi đã rất nhiều lần đến với Campuchia, vào cả hoàng cung thăm quốc vương Norodom Sihanouk, thăm hoàng thân Norodom Ranariddh, làm việc với chủ tịch Heng Somrin, với thủ tướng Hunsen. Sổ tay của tôi dày lên những thông tin về Campuchia. Tuy nhiên, những gì ghi được, thấy được của hai ngày ở Phnôm Pênh từ năm 1969 vẫn là chất liệu cốt lõi in sâu trong tôi về thủ đô của xứ chùa tháp này.

Theo truyền thuyết, khoảng 650 năm trước, khu vực thủ đô Campuchia ngày nay là một làng chài trong vùng đầm lầy nằm bên bờ sông Tôn-le-sáp. Sau một trận lụt, một người phụ nữ giàu có tên là Pênh đi thuyền đến một gò nổi, phát hiện một khúc cây to trôi quanh quẩn gò nổi, cứ tấp vào rồi lại trôi ra, rồi lại tấp vào, nhiều lần như vậy, thấy lạ bà Pênh liền đến vớt lên và thấy có 4 pho tượng phật trong ruột một cây bồ đề. Là người sùng tín đạo Phật, bà hiểu rằng đây là hiện tượng tâm linh hiếm có, phật hiển linh cho vùng đất này. Bà cho lập đàn khấn vái, tế lễ và cho lập am để thờ. Sau đó, bà bỏ tiền của ra và kêu gọi mọi người đắp tôn cao gò nổi thành một ngọn đồi để tránh ngập lụt và xây trên đồi một ngôi chùa để thờ phật. Tiếng Campuchia đồi là Phnôm, chùa là wat, dân chúng gọi là Wat Phnôm (chùa trên đồi). Chùa rất linh thiêng, dân tứ xứ về cầu khẩn và lập nghiệp. Làng chài ngày một đông và mở rộng dần ra, mọi người đắp đất để xây nhà, xây đường, đó chính là tiền thân cho những con phố đầu tiên của thành phố thủ đô Campuchia ngày nay. Khi bà Pênh qua đời, người ta đắp tượng, lập am thờ bà phía sau nhà thờ phật của ngôi chùa trên đồi do bà chủ xướng xây nên. Và từ đó, ngọn đồi được mang tên bà, gọi là Phnôm Pênh (đồi Pênh) và chùa cũng được gọi là Wat Phnôm Pênh. Sau này, làng chài phát triển được mang tên làng Phnôm Pênh và nó là tiền thân của thành phố Phnôm Pênh hôm nay.

*

2. Hoàng Cung

Trung tâm của thủ đô Phnôm Pênh và điểm thu hút rực rỡ nhất của Phnôm Pênh là Hoàng cung.

Kinh đô đầu tiên của Campuchia còn dấu tích tồn tại đến hôm nay là Angkor Thom, Angkor Wat nổi tiếng xây từ những năm 800. Tuy nhiên, do địa lý cách trở bởi Biển Hồ, khó tiếp xúc với dân cư phía Nam, vả lại gần biên giới Thái Lan, chiến tranh liên tục xảy ra nên kinh đô được chuyển dần về phía Nam. Đầu tiên là BaSan rồi LoVek, rồi dời về Oudong hiện còn lăng mộ trên một ngọn núi thấp. Mãi đến năm 1800 vua Norodom mới cho dời đô từ Oudong về Phnôm Pênh và cho xây dựng Hoàng cung. Đầu tiên chỉ là các điện bằng gỗ. Đến đầu thế kỷ 20, Hoàng cung mới được xây dựng nguy nga hoành tráng với sự tham gia của kiến trúc sư Campuchia và Pháp. Nhiều cung điện được xây: điện Damnakchan là nơi làm việc của hoàng gia. Tôi đã một lần được vào gặp quốc vương Norodom Sihanouk tại điện này. Cung điện Đồng (Hok Samran Phirum) là nơi nghỉ ngơi của hoàng gia. Đặc biệt điện Phochani dùng làm nơi đón khách, hội nghị, biểu diễn nghệ thuật do các nghệ nhân ở Hưng Hà tỉnh Thái Bình của Việt Nam xây dựng. Điện Napoleon dành cho nữ hoàng Engenie của Pháp, bà là vợ của Napoleon, điện do Napoleon xây tặng nên trong điện có nhiều chữ N. Riêng điện Khánh Tiết được xây lại năm 1919 bởi sự chỉ đạo của vua Sisowath với diện tích 1.800m2, có đỉnh tháp cao 59m với ba mái chóp. Ở giữa điện là ngai vàng để vua ngự trong các lễ đăng quang hoặc thiết triều. Trần mái vòm họa tiết rất rực rỡ bởi những bức tranh vẽ bằng loại mực không phai màu mô tả truyền thuyết sử thi Reamket rất độc đáo, truyền thuyết này là Khơ me hóa từ sử thi Ramayana của Ấn Độ giáo, luôn tạo cho mọi người sự trang nghiêm và cũng rất hấp dẫn. Tôi đã tò mò tìm hiểu về sử thi Reamket này vì ở đây và cả ở Angkor, ở các chùa lớn đều có vẽ truyện này bằng những bức tranh liên hoàn kế tiếp nhau, màu sắc rất tươi. Chuyện Reamket tóm tắt thế này:

Hoàng tử Reamker có vợ đẹp bị chằn tinh cướp đi và ép làm vợ. Nhờ sự hỗ trợ của thần vương hầu (thần khỉ), gọi là thần Hanuman và sự giúp đỡ của em trai, Hoàng tử Reamker đã dũng mãnh đánh vào trung tâm xứ sở của vua Chằn, cuộc hỗn chiến làm kinh thiên động địa. Vua chằn dùng đủ mưu kế vẫn bị thua, cuối cùng y tung phép hóa toàn bộ quân lính của hắn giống y người thân của Reamker. Anh em hoàng tử bàng hoàng không dám tấn công, vua chằn lấy lại thế thắng. Trong phút giây nguy hiểm này, bỗng hoàng tử nghe một lời phán của Thevada từ trời cao: “Không được do dự, phải tiến công để chiến thắng”. Nghe lời chỉ truyền họ xông lên và giành được thắng lợi. Câu chuyện là như vậy, được vẽ để diễn tả bằng tranh liên hoàn rất đẹp với mục đích truyền lại cho các thế hệ hôm nay và các đời sau này, để mọi người ý thức biết bảo vệ hạnh phúc của mình và của dân tộc mình.

Campuchia xứ sở nụ cười
Minh họa Công Quốc Hà

Trong điện Khánh Tiết có tượng bằng đồng của vua Sivo Wath (người cho xây điện này), tượng to nguyên mẫu thật của nhà vua. Và tại đây cũng có tượng của bốn vị vua của bốn triều đại đã trị vì ở đây.

3. Nụ Cười Bayon

Đêm cuối cùng ở Phnôm Pênh, chúng tôi được ngồi trong hội trường Bốn Mặt để xem múa Apsara, nghe những bài dân ca Campuchia:

Đây, Campuchia đất nước thân yêu ngàn lần tươi thắm.

Ai qua quê tôi hãy ghé thăm nơi đây vườn cây đẹp lắm

Là Svay Chanty(*) ngọt ngào hương vị thấm đậm

Là Svay Chanty tuyệt vời ai ơi, chớ quên chốn này.

Các làn điệu dân ca ngọt ngào như hương vị thốt nốt và nhẹ nhàng trầm bổng như trải dài mênh mang trên các cánh đồng. Đất nước Campuchia đã hồi sinh và đang phát triển. Trong sự hồi sinh đó, thấm đậm tình nghĩa của hai dân tộc Việt Nam - Campuchia, sự thấm đậm vượt qua ngưỡng hữu nghị thân thiết bởi nó thấm đậm bằng máu xương của hai dân tộc. Ai đã một lần đến trước tượng đài hữu nghị Việt Nam - Campuchia đang lồng lộng giữa trời mây sẽ luôn cảm nhận sự linh thiêng cao cả vô giá này. Lời ca nhẹ nhàng bay bổng ấy đã đưa chúng tôi về với quá khứ xa xưa hơn, chuyện của 400 năm trước dưới triều vua Chey Chetta II. Nhưng ngày ấy người ta gọi đất nước chùa tháp này là xứ Chân Lạp. Những năm tháng đó Chân Lạp liên tục bị nước Xiêm tấn công tàn phá. Vua Chetta II đã cho dời đô từ Angko về Oudong nhằm xa biên giới, bớt nhũng nhiễu của giặc Xiêm. Nhưng đất nước vẫn không yên. Vua Chetta II dù đã có hai vợ vẫn xin cầu hôn với con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Và nàng Ngọc Vạn đã trở thành hoàng hậu, được vua phong tước hiệu Som dach… Ngày đó gọi là hoàng hậu Ang Cuv. Mối giao duyên đó đã đưa hai đất nước gần gũi, thân thiện. Năm 1621, khi quân Xiêm đưa hai đạo quân tấn công Chân Lạp, theo thỉnh cầu của vua Chân Lạp, chúa Nguyễn đã đưa đại binh, cả chiến thuyền sang tiếp ứng. Hai lần như vậy, nhờ sự giúp sức đó, Vua Chetta II, đồng thời là con rể của chúa Nguyễn đã trực tiếp chỉ huy và thắng trận. Nhiều binh sĩ Việt Nam, những chiến binh tình nguyện Việt Nam ngày ấy đã hy sinh nằm lại vĩnh viễn trên đất Campuchia. Vua Chetta II cho xây mộ tháp trên núi Oudong, tháp như ngọn kiếm thép nhọn cao vút trên nền trời lồng lộng mây xanh, tượng trưng cho sự bất khuất, chí khí anh hùng của những người đã ngã xuống vì đất nước chùa tháp trong đó có rất nhiều những chiến binh tình nguyện quân Việt Nam. Ngày nay, kinh đô Oudong đã bị hủy diệt chỉ còn lại những ngọn tháp cao trên đỉnh núi. Tôi đứng nghiêng mình trước tháp Oudong và nghĩ đến những người chiến sĩ tình nguyện Việt Nam của ngày xưa và của hôm qua đã hy sinh, đã đổ máu cho dân tộc Campuchia và cho tình hữu nghị muôn đời của hai nước… Tôi gặp ở đây những bức tượng của nụ cười Bayon.

*

Chiếc máy bay của hàng không Campuchia liên doanh với hàng không Việt Nam sơn màu tím cất cánh từ sân bay Pô-chen-tông rồi nghiêng cánh về bên trái để ngược về phía Bắc. Dòng sông Bốn Mặt và thành phố Phnôm Pênh hiện rõ dưới cánh bay. Chỉ mấy chục phút sau, máy bay đã hạ độ cao, lướt êm trên tấm gương khổng lồ Biển Hồ để hạ cánh xuống Siêm Riệp. Angkor Wat hiện lên như một mô hình đắp nổi. Năm ngọn tháp in bóng lung linh xuống nước và lồng lộng với mây trắng trời xanh. Angkor theo tiếng Campuchia là kinh đô. Đây chính là kinh đô đầu tiên của vương quốc Campuchia xây từ hơn 1.000 năm trước, đó là Angkor Wat và Angkor Thom mà người Việt Nam xưa vẫn gọi là Đế Thiên, Đế Thích, là quần thể đền đài lớn nhất thế giới với 600 công trình kiến trúc được xây từ năm 802 (cách chúng ta gần trọn 1.300 năm) và xây toàn bằng đá, đến ngày nay vẫn còn nguyên hình một khu kinh đô xưa. Chính vì vậy, nó được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Thật là vĩ đại bởi từ hàng rào đến đền, tháp đều làm bằng đá, hàng triệu khối đá, có những tảng nặng đến 2 - 3 tấn cho những mái vòm, và vĩ đại hơn là điêu khắc. Đá được xây, được xếp trước và sau đó các nghệ nhân mới điêu khắc. Có những mặt tượng cao đến năm mét và những chi tiết nhỏ như chi tiết trên những bộ ngực trần, chi tiết của các ngón tay, những nếp nhăn trên bụng một số vũ nữ Apsara mà các hướng dẫn viên còn giới thiệu đó là những vũ nữ đã có con, thật là tinh xảo và tài nghệ. Dọc đường đi là truyện sử thi, vẫn là chuyện về hoàng tử Reamker nhưng được thể hiện bằng tài nghệ điêu khắc đá cao siêu rất sắc sảo, rất chi tiết, rất thánh thiện nhưng cũng rất tự nhiên, gần gũi.

Chính tại kinh đô này, năm 802 vua Jayavarman II sau khi đánh thắng quân xâm lược, dành độc lập cho đất nước đã tuyên bố nền độc lập của vương quốc Khơ Me mở ra kỷ nguyên rực rỡ cho hậu thế… Ông đã huy động hàng vạn nhân công để tạo tác nên công trình này. Trong Angkor Wat có một gian có kiến trúc độc đáo, tạo nên sự huyền bí kỳ lạ. Du khách đứng gần tường, nắm chặt bàn tay và vỗ lên ngực mình nhè nhẹ thì sẽ nghe tiếng vang vọng như mình đang đánh trống. Xung quanh vách rất nhiều điêu khắc các tiên nữ đang đùa vui ríu rít.

Đến đời vua Jayavarman 7, với chủ trương lấy phật giáo đại thừa làm gốc, ông đã cho xây Angkor Thom (có nghĩa là kinh đô lớn), Angkor là thành tựu kiến trúc huy hoàng trong việc sử dụng đá. Đến 1.000 năm sau khoa học hiện đại vẫn ngạc nhiên và khâm phục.

Tôi thơ thẩn trong Angkor Thom, trong đền Bayon, ngôi đền quốc gia của vương triều thế kỷ thứ 12. Ngôi đền có đến 37 tháp và trên các tháp cao, thấp đều có hình Bayon Bốn Mặt. Các mặt Bayon dù là nhắm mắt, mở mắt, nhìn thẳng hay nhìn xuống đều cười, nụ cười rất nhẹ nhàng, có khi là chỉ mỉm cười. Các tượng Bayon là tượng trưng cho đức Phật, mà nhiều nhất là Quan thế âm bồ tát, cho chính vua Jayavarman 7. Một tấm bia đá còn ghi lại lời vua Jayavarman 7: “Chính vì muốn giải thoát loài người khỏi biển khổ mà trẫm có lời nguyền tu hành để trở thành Phật”. Mặt Phật nhìn bốn phương là để quan sát cuộc sống, là mong muốn che chở cho loài người, là muốn giữ độc lập cho dân tộc.

Angkor và cả Oudong đã bị bỏ quên đến 5 - 6 thế kỷ, nhưng dù là 600 năm, 400 năm, Angkor và tháp Oudong vẫn kiên gan đứng đó, nụ cười Bayon vẫn nở, vẫn xao xuyến lòng người. Mong rằng đất nước Campuchia sẽ như lòng mong muốn của tiền bối và luôn là đất nước của xứ sở nụ cười.

* Svay Chanty: có nghĩa là trái đào chín.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

Mùa xuân nho nhỏ là món quà cuối cùng và quý giá nhất mà nhà thơ dành tặng cho quê hương xứ Huế thương yêu của mình.
Qua đèo đá đẽo - Thơ Đoàn Xuân Hòa

Qua đèo đá đẽo - Thơ Đoàn Xuân Hòa

Baovannghe.vn- Những linh hồn lính nhớ nhà/ Đêm đêm lạc giữa nhập nhoà trăng non
Đi tìm hoàng hôn đã mất

Đi tìm hoàng hôn đã mất

Baovannghe.vn - Mỗi một chuyến đi ra khỏi những nơi đô hội, dù xa hay gần, không hề mang ý nghĩa một cuộc trốn tránh tìm lãng khuây, mà bao giờ cũng là một chuyến trở về, trở về giữa lòng thiên nhiên và trở về với chính mình. Đó là một cuộc hành trình ngược chiều, một hành động nhận diện những mất mát và băng bó những vết thương.
"Có còn làm thơ". Tản văn của Đào Đức Tuấn

"Có còn làm thơ". Tản văn của Đào Đức Tuấn

Baovannghe.vn - Ai dè càng thêm tuổi mới nhận ra càng sống càng thêm nhiều cái khổ cái lo. Vậy nên thằng nào cũng thích thơ và làm thơ, là chuyện dễ hiểu. Thơ giúp vui cuộc đời mà.
Văn chương về đề tài chiến tranh những bước tiến mới

Văn chương về đề tài chiến tranh những bước tiến mới

Baovannghe.vn - Với nhiều sáng tác văn xuôi về thời chiến, cũng như các tiểu thuyết đương thời, ít hư cấu hơn là tái dựng kể - tả, với một đề cương nội dung nhiều nhân vật