Hòa Bang Ngạch, tự là Nễ Trai, hiệu là Tễ Viên Chủ Nhân, người Mãn tộc, sinh khoảng năm Càn Long nguyên niên, tức năm 1736, chết năm nào không rõ. Cuộc đời của ông chu du nhiều nơi, từ Thiểm Tây , Thanh Hải, Cam Túc, Triết Giang, Phúc Kiến, Kinh đô đều có lưu lại dấu chân ông. Ông lại là người có kiến thức rộng, thích thâu thập những truyện dân gian kỳ lạ. Ông là một tiểu thuyết gia nổi tiếng vào đời nhà Thanh. |
Lương Sinh
Lương Sinh ở Biện Châu (nay thuộc Hà Nam), từ nhỏ đã mất cả cha lẫn mẹ, trong nhà vô cùng nghèo khó. Hỏi vợ chưa kịp cưới về đến nhà thì vợ đã chết, anh ta cũng không còn vốn liếng mà hỏi vợ lại lẫn nữa. Bạn bè đùa bỡn, đặt cho anh ta biệt hiệu là “Lương Vô Cáo” (Ý nói: khốn khổ mà không nói với ai được.) Nhưng Lương Sinh là người ôn hòa nho nhã, thích uống rượu, giỏi đánh cờ, nên được bạn đồng bối rất yêu mến, đặc biệt thân thiết với hai người bạn học họ Uông và họ Lưu. Cha của Lưu là quan tri châu, còn nhà họ Uông giàu có đến ức vạn, đều có thể nói là hào phú. Lương Sinh thân phận là hàn sĩ, lại chơi cùng với hai người Lưu, Uông, có kẻ chế giễu anh, cho là: “nghèo mà làm bạn với giàu, người không mảnh khố, sao không biết tự lượng sức mình”. Lương Sinh nghe thấy cười bảo: “Hai vai ta gánh một cái mồm, bọn họ dù có giàu sang như Đào Chu, Y Đốn[1], cũng làm gì được cho ta đâu?” Mọi người càng cười Lương Sinh không có nhân phẩm, liền đổi gọi anh ta là “Lương Hy Tạ”, ý là lấy tên nhân vật Tạ Hy Đại[2] trong truyện Kim Bình Mai ra để trêu chọc anh ta.
Lưu sinh có một vợ, năm thiếp, Uông sinh có một vợ, bốn thiếp, ai nấy lại có rất nhiều nô tỳ xinh đẹp, đồng bộc khôi ngô, mỗi khi yến ẩm, đều sai bọn chúng ra mời rượu, tranh nhau khoe khoang. Một hôm, Uông sinh lấy một ngàn lạng bạc mua từ Giang Nam về một mỹ nữ, vô cũng yêu kiều xinh đẹp, tất cả những người thiếp đều không ai sánh bằng, Uông cho là gái đẹp trong thiên hạ chỉ có mình nàng ta mà thôi. Bèn viết thư mời, bày tiệc rượu mời khách khứa đến tụ hội. Được hai tuần rượu, Uông gọi mỹ nhân ra cho mọi người ngắm xem. Bèn hạ bình phong, cuốn màn trướng, mỹ nữ chầm chậm bước ra. Chỉ thấy một hương thơm ngát phòng, tọa khách đều vô cùng kinh ngạc. Mỹ nhân bái chào một vái rồi lại vào phòng trong, không nói một lời. Tất cả khách khứa đều ngừng hết đũa chén, như mất hồn mất vía. Uông sinh dương dương tự đắc, rót mấy chén rượu lớn, nói: “Chư quân đúng là có phúc, mới có thể được thấy tiên nữ như vậy!” Mọi người đều cứng lưỡi không biết đáp lại thế nào. Chỉ có Lương sinh mỉm cười ngồi ở cuối tiệc, nhấm nháp rượu thịt, tựa như không trông thấy gì cả.
![]() |
Tranh của Shi Zhu Zhai. |
Lưu sinh ngồi ngây hồi lâu, mới tĩnh tâm lại được, nói với Lương sinh: “Mọi người đều mê mệt, chỉ có riêng huynh là tỉnh táo, nếu chẳng phải là không có mắt, thì cũng là không có tình cảm.” Lương sinh chậm rãi đáp: “Tôi nhìn qua đã hiểu hết cả rồi. Tuy mắt có nhìn thấy, nhưng tình cảm không thể bị kích động.” Uông sinh cảm thấy không vui, hỏi: “Vậy huynh thấy nàng ấy thế nào?” Lương sinh nói: “Nếu so với những người mà nhị vị nhân huynh xưa nay vẫn sủng ái thì đúng là cách xa một trời một vực. Nhưng nếu như coi nàng ta như Tây Tử Di Quang[3] thì còn chưa xứng. Nhị vị nhân huynh kiến văn chưa rộng, nhất định cho rằng lời nói của tôi không xác thực, bây giờ tôi sẽ nói rõ ràng cho hai vị nghe, có được chăng?” Hai người đều nói: “Được!”. Lương sinh nói: “Đầu tóc của mỹ nhân bị đồ trang sức che lấp, chân bị váy áo che lấp, hai điểm ấy tạm thời bỏ qua không nói. Bây giờ những chỗ mọi người đều có thể trông thấy, tôi sẽ chỉ ra một vài điểm, xấu đẹp lập tức có thể rõ ràng.” Uông sinh nói: “Xin huynh hãy nói cho biết.” Lương sinh bảo: “Lông mày dài, nhưng là dùng mực vẽ nên; con mắt đẹp, nhưng lòng đen lòng trắng không phân minh; làn môi hồng, là dùng son mà tô vậy; Vai thon eo nhỏ, nhưng cổ quá dài, khuỷu tay hơi cong, tựa như đang gắng sức; áo yếm mặc trên người, dường như cũng lộ rõ vết thắt ngấn. Tất cả những cái ấy đều là trang sức nhân tạo cố tình tạo ra sau này. Tôi nghe nói, mỹ nhân cổ xưa, sắc diện như ráng sớm soi tuyết, sáng đẹp lóa người, còn những mỹ nhân hiện nay, tứ chi ngũ quan đều được trang sức. Giả như để đầu bù tóc rối, quần áo thô sơ, không tô son phấn, thì chỉ e là có cười rách mang tai nước vẫn vững thành vẫn bền, chẳng thể nghiêng được vậy.” Khách ngồi trên tiệc nghe thấy câu bình luận nghiêm khắc ấy, chính hợp với lòng đố kỵ của họ, nên đều cười theo tưởng đến vỡ nhà. Uông sinh đỏ mặt tía tai, nhất thời không đáp lại được. Lưu sinh thì không cho là phải, nói: “Lương huynh mắt sáng như sao, mà cũng làm chuyện khua môi múa mép, bới lông tìm vết, đâu có đủ tư cách để phẩm bình chứ! Xin hỏi, Tây Tử Di Quang dung mạo thế nào? Huynh nói là sáng đẹp lóa người, chắc không làm lóa mắt kẻ xấu đấy chứ? Chuyện trong chốn ôn nhu, cần phải chính bản thân mình thực sự sống trong cảnh phú quý, mới có thể thực sự hiểu được lạc thú ngà ngọc vây quanh. Còn một học trò nghèo như huynh, chỉ đọc qua vài trang sách, liền cho rằng “trong sách có mỹ nhân”, mà tự cho là của mình. Đến khi trông thấy mỹ nhân thực sự trước mắt, nhất thời tâm thần mê mệt, biết rõ đời này quyết không thể hưởng được lạc thú có người đẹp trong tay, cho nên không thể không coi tất cả đều như không có gì, nói ra mấy câu bàn luận không đâu để tự trào. Sao không thử nghĩ bản thân mình đến một người vợ kết tóc cũng không có phúc có được, đến nay vẫn cô đơn một thân một mình, dẫu muốn có một con hầu chân đất cũng không kiếm đâu ra, chỉ khốn khổ cái tay quý báu của huynh, không biết một tối phải vầy cái đồ chơi kia mấy bận!” Khách khứa nghe thấy anh ta ăn nói khinh bạc quá, không cười nữa. Chỉ có Uông sinh là cười lớn, bao nhiêu tức giận hổ thẹn đều tan biến như làn khói. Lương Sinh biết nói suông vô ích, chưa hết tiệc đã lui trước. Từ đó, Lương Sinh không còn thân mật qua lại với hai người Uông, Lưu nữa, mối giao tình dần dần trở nên xa cách. Những bạn đồng học kể cho nhau nghe chuyện của Lương, cùng nhau làm bài thơ liên cú để trêu chọc chàng rằng:
Tuổi trẻ mà da mặt rõ dày;
Biết đâu Tạ Đại hiếm hoi thay.
Bây giờ đuổi kẻ không nương tựa;
Chẳng mấy “Rau vi”[4] hát núi tây.
Lương Sinh đọc được bài thơ, vô cùng buồn bã, thầm nghĩ: “Bọn họ lấy phú quý ra để kiêu ngạo với người, thích được ngợi khen, ghét lời thẳng thắn, sao ta lại không thể lấy sự nghèo khó ra mà ngạo lại họ, cố gắng cũng tìm một người thiếp, để lấy làm vui chứ? Khốn nỗi trong túi không tiền, chỉ biết mơ hão, thế gian lại chẳng có những kẻ liệt nữ nghĩa hiệp như Hồng Phất, Hồng Tiêu[5], dù cho mình có nhắm được giai nhân nào, thì cũng làm sao tự tìm đến cửa hỏi được chứ?” Trong lòng vô cùng buồn rầu, Lương bèn ra phố dạo chơi, ngẫu nhiên trông thấy một ông già bán sách cũ trên phố. Lương sinh đi tới giở xem, bỗng phát hiện một cuốn sách, màu giấy rất cũ, nhưng đóng bọc rất trang nhã. Mở sách ra xem, hóa ra là cuốn “Đào thi toàn tập” viết tay bằng chữ tiểu khải rất đẹp, không biết là chữ của ai chép. Lật cuối sách ra tìm xem lạc khoản, mới biết đó là chân tích của Triệu Mạnh Phủ[6] đời Nguyên. Sinh thầm sung sướng trong lòng, tựa như đào được vàng chôn dưới đất vậy, bèn hỏi: “Cuốn này bao nhiêu tiền?” Ông lão đáp: “Không được một trăm đồng thì không bán.” Lương Sinh sợ nói dài dòng ông lão sẽ đổi ý, bèn cởi luôn áo ra cầm cố lấy tiền trả cho ông già, rồi ôm sách vào lòng về nhà, đợi được giá sẽ đem bán. Vừa hay trong quận có một vị thân sĩ, xưa nay vốn mê thư họa, nóng lòng tìm mua, Lương nhờ người đem cuốn “Đào thi tòan tập” đến cho ông ta xem. Vị thân sĩ vừa thấy, liền như vớ được của báu, qua mấy lần ngã giá, cuối cùng chấp nhận mua với giá một ngàn lạng bạc. Lương Sinh một mực giữ bí mật không nói cho ai biết, chỉ âm thầm nhờ mối lái, đi khắp nơi tìm mỹ nhân, tìm đến mấy chục đám, mà chưa ưng ý người nào.
Thời gian sau, có một bà già lưng còng dẫn một người con gái đến. Cô gái ước độ mười sáu mười bảy tuổi, răng trắng, tóc đen, da dẻ mịn màng, đúng thực là một mỹ nhân trời sinh, trong đời Lương chưa từng thấy qua, khiến chàng tâm thần không khỏi say mê. Lương sinh mời họ vào nhà ngồi, rồi hỏi bà lão: “Cô ấy là con gái bà lão ư?” Bà già đáp: “Phải.” Lương Sinh nói: “Có một người con gái thế này, lo gì không gả được cho nhà vương hầu?” Bà già nói: “Cửa công hầu sâu như bể, một khi bước vào rồi thì có lẽ nào lại được trông thấy nhau nữa? Già hổ thẹn là đã nghèo khó lại già cả, nên không thể không đem nó ký thác cho kẻ đọc sách, chỉ mong là có ăn có mặc, không đến nỗi phải chết đói chết rét, mà thân thích lại có thể lại qua thăm nhau. Đó là tâm nguyện lớn nhất của già, chứ không dám mong muốn những điều phận mình không thể có được.” Lương sinh nói: “Nếu như đúng là vậy, thì lão bà quả thực cao minh. Chỉ có điều kẻ hàn sĩ sính lễ đạm bạc, gắng gượng dâng lên lão bà một trăm lạng bạc để chúc thọ, không biết lão bà có bằng lòng không?” Bà lão cười xòa nói: “Đúng là lời của kẻ mọt sách, ta vì thấy cậu thật thà chất phác, nên mới đem con gái ký thác cho cậu. Con gái đâu phải là món kiếm tiền của ta, làm sao nhẫn tâm coi là món hàng đắt giá mà cất giữ? Không cần phải nói nữa! Chỉ cần nhắc đến một đồng tiền là ta sẽ dẫn nó đi tìm nhà khác.” Lương sinh không dám miễn cưỡng nữa, chỉ còn việc bày biện tiệc rượu khoản đãi họ. Bà già ăn uống no say rồi, dặn dò con gái: “Con hãy hầu hạ chồng cho tốt, không được nhớ ta, qua mấy hôm ta sẽ lại đến thăm các con.” Nói xong ra khỏi cửa, đi thẳng không quay đầu lại. Cô gái ở lại cũng rất an tâm, không nhớ nhung gì bà lão cả. Lương sinh bỏ tiền ra mua sắm quần áo trang sức thật đẹp cho cô gái. Nàng vốn sinh đẹp tự nhiên, không cần nhờ vào tí son phấn trang điểm nào, đậm son nhạt phấn, chẳng gì không đẹp, thực không khác nào tiên nữ giáng trần. Lương sinh không mất một đồng tiền, tự nhiên được giai nhân như vậy, thực là nằm mơ cũng không thể nghĩ ra được. Hai người quấn quýt thương yêu, khác hẳn bình thường.
Không được bao lâu, những bạn đồng học đều biết chuyện, truyền tai nhau coi là một chuyện lạ. Uông sinh đến gặp Lưu sinh, nói: “Huynh biết chuyện gì chưa, Lương Vô Cáo cũng đã nạp thiếp rồi.” Lưu sinh cười đáp: “Biện Thành lớn như biển, lẽ nào lại không có những nữ nhân bị vứt bỏ như người thiếp ở nước Tề kia ư? Dù cho có một hai phần nhan sắc, đã ở nhà anh ta làm lụng việc nhà hơn một tháng rồi, sáng ăn cám rang, tối ăn cháo bẹ, không cần hỏi cũng biết mặt mày gầy võ, trông thấy tất phát buồn nôn.” Uông sinh nói: “Tôi cũng nghĩ thế. Chỉ là trước đây từng bị hắn làm nhục, đến nay vẫn chưa nuốt trôi được cục tức. Bây giờ sao lại không lấy cớ đến chúc mừng, nhìn ngắm tận mắt cho biết, để chế giễu ngay trước mặt hắn, cho hắn phải câm họng, đó cũng là việc hả lòng hả dạ vậy!” Lưu sinh cười nhận lời. Vậy là ai nấy sắm năm tiền bạc trắng, lấy danh nghĩa là đến chúc mừng, mặc áo đẹp, ngồi xe cao mà đến nhà Lương sinh.
Lương sinh nghe tin, cười bảo với vợ: “Hai kẻ hôm nay đến đây, chắc là để làm nhục ta đấy!” Rồi kể cho nàng nghe chuyện trước đâu, nàng mỉm cười nói: “Chàng không cần phải lo nghĩ, cứ kệ họ muốn làm gì thì làm, thiếp sẽ trổ tài mọn với họ để chàng giải cơn phẫn hận.” Lương sinh dặn dò chuẩn bị rượu thịt. Hai người kia đến nơi, ai nấy kể nể tình xa cách, và tỏ ý chúc mừng. Lương sinh chỉ một mực khiêm cung. Rượu được vài tuần, hai người xin được gặp người thiếp của Lương. Lương sinh từ chối bảo: “Nô tỳ thô thiển để sai bảo, chẳng qua dùng vào việc bếp núc, giúp đỡ cho đệ, làm sao dám làm bẩn mắt quý nhân?” Hai người vẫn một mực muốn gặp, Lương sinh mới bằng lòng gọi nàng ra gặp mặt. Cô gái vừa từ cửa buồng bước ra, hai người kia đã mê mẩn thần trí, ngơ ngẩn như mất hồn. Cô gái từ tốn bước đến trước mặt, chỉnh đốn áo váy vái chào, hai người cũng tự nhiên gập người bái tạ mà không biết. Lương sinh nói với nàng: “Hai vị đây đều là huynh đệ thế giao, không cần phải tránh né. Hôm nay hai vị hạ cố đến thăm hàn xá, nàng cũng nên kính một chén rượu.” Cô gái bằng lòng, bưng chén rượu lên mời, ngón tay nhỏ xinh như ngọc chuốt. Hai người kia thần phách điên đảo, như con rối gỗ bị người điều khiển. Lương sinh cười lớn, mọi người uống say rồi tan về.
Trên đường trở về, hai người cùng bàn luận bảo: “Thật không tin được rằng nhân gian lại có tiên nữ như vậy, từ nay những nữ nhân khác đều không ai còn được coi là có nhan sắc nữa rồi! Làm sao có thể gần gũi một chút ngọc thể của nàng ta, thì có chết cũng đáng!” Lưu sinh chợt nói: “Chuyện này không khó! Huynh lẽ nào không biết, Lương Vô Cáo coi rượu như mạng sống ư? Ít bữa nữa là sinh nhật của hắn, chúng ta hãy bày một bàn tiệc rượu, đến nhà hắn chúc mừng, rồi ngầm bỏ ô đầu[7] vào rượu, đợi hắn ngủ say rồi, khi ấy chúng ta sẽ tha hồ làm việc mình muốn, hắn làm gì được chúng ta? Vô Cáo với chúng ta đối tốt với nhau bao nhiêu năm như thế, nhất định sẽ không nói gì đâu. Mà dù cho hắn có đi kiện quan, chúng ta mỗi người bỏ ra mấy trăm lạng bạc, thì chuyện gì chẳng xong?” Uông nghe vậy mừng lắm.
Đến ngay hôm đó, quả nhiên hai kẻ kia mang theo rượu và đồ nhắm đến nhà Lương. Cô gái nói với Lương rằng: “Hôm nay hai kẻ kia đến đây có ý đồ không tốt. Chàng cứ việc ngồi xem, thiếp tự có cách thức để đùa bỡn chúng.” Lương sinh vốn ham rượu, thấy rượu là quên cả sống chết, xưa nay lại vốn tin tưởng vào sự thông minh tài trí của nàng, nên biết rằng mình không cần phải lo lắng. Trời còn chưa tối, Lương sinh đã uống đến say khướt, nằm vật trên giường như xác chết. Hai kẻ kia liền đóng chặt cửa lại, đốt nến lên, bức ép cô gái. Nàng thản nhiên cười nói: “Hai chàng phú quý lại tuấn tú, lòng thiếp đâu phải gỗ đá, làm sao không mến thích hai chàng? Chỉ là chỗ này không phải nơi hành lạc, sau nhà có một tiểu lâu, vắng vẻ thanh khiết, sao không tới đó cùng nhau trò chuyện?” Hai người nghe thấy vậy, sướng tưởng nhảy cẫng lên được. Người bên tả, người bên hữu cùng kẹp cô gái đưa đi, vòng ra sau nhà, quả nhiên thấy một căn lầu, cao chót vót. Uông sinh nói: “Đến thăm nhà nàng đã nhiều lần rồi, sao ta chưa bao giờ thấy tòa lầu này nhỉ?” Nàng nói: “Mới dựng được chưa đầy một tháng.” Ba người nối chân nhau lên lầu. Trên lầu chia ra hai gian trong, ngoài. Gian ngoài ba mặt có chấn song, có thể đứng ngắm ra xa. Bên trong đã bày sẵn một bàn tiệc, rượu và đồ nhắm đầy đủ, lại đốt hai cây nến rất sáng. Lưu sinh vỗ vai cô gái nói: “Nàng thật là một mỹ nhân khiến người ta phải mê hồn!” Cô gái chỉ mỉm cười không nói gì. Khi ấy đang giữa mùa hạ, hai người cởi áo, bỏ mũ, treo lên cột nhà, rồi tha hồ uống rượu. Cô gái chợt nói: “Chút nữa thì quên mất, thiếp có mấy món đồ rất vào rượu, xin đem ra đây để hai vị nhắm.” Rồi đi vào gian trong, rất lâu không thấy đi ra. Lưu sinh đứng dậy đi xem thế nào, Uông sinh cũng đi vào theo. Hai người tìm kiếm quanh đấy, nhưng không thấy tông tích đâu cả. Uông sinh đi ra trước gian gác, nghe thấy trong gác có tiếng loạt soạt, ghé đến gần xem, thấy cô gái hốt hoảng đứng lên. Uông sinh mừng rỡ hỏi: “Làm gì mà trốn vào trong này?” rồi vội lách người vào cửa, nàng bèn cướp lối chạy trốn. Uông sinh đuổi theo xuống lầu, nàng lại nấp trong bụi hoa. Uông sinh chồm thẳng vào ôm chặt lấy cô gái. Nàng lấy hết sức chống cự, Uông sinh lại càng ôm chặt hơn.
Đang lúc hỗn loạn, bỗng nhiên có mấy người gõ mõ cầm canh đi tới, nghe thấy có tiếng người, bèn hò nhau bắt được Uông sinh, vả cho mấy bạt tai, mắng chửi là kẻ trộm. Uông sinh buông người con gái ra, phân bua: “Ta là tú tài, làm sao lại cho ta là kẻ trộm, còn hỗn xược đánh chửi ta nữa?” Mọi người nhờ ánh trăng sáng nhìn kỹ lại, cũng kinh ngạc nói: “Đúng là Uông tam gia! Ông làm gì ở đây thế? Xin thứ tội cho.” Uông sinh không tiện đáp lời. Mọi người lại nhìn xuống người dưới đất, thì hóa ra là Lưu công tử. Bèn cùng nhau đỡ anh ta dậy, và xin lỗi qua loa hai người. Hóa ra là bọn tuần đinh đi tuần đêm, nhận lầm hai người họ là kẻ trộm. Hai người xưa nay nổi tiếng là hào phú, cho nên người ở Biện Châu quá nửa đều biết đến họ. Lưu sinh trách Uông sinh rằng: “Lão huynh say rượu hành sự thật quá đáng, khiến ta phải xấu mặt thế là có ý gì?” Uông sinh lúc ấy mới biết rằng người mình ôm chính là Lưu sinh, trong lòng vô cùng kinh ngạc. Bộn tuần đinh bảo: “Đêm khuya rồi, không tiện về phủ nữa, chúng tôi xin để lại hai người ở đây cùng với nhị vị, ngồi đợi đến khi trời sáng, có được không?” Hai người đành đồng ý. Ngồi xuống bình tĩnh lại rồi, quay sang nhìn nhau, thì ai nấy đều chỉ mặc một chiếc áo lót, trông rất bất nhã. Lúc ấy nhớ lại y phục vẫn còn treo trên cột lầu, bèn nhờ hai người tuần đinh đi lấy giúp mình. Tuần đinh nói: “Chỗ này rất hoang vắng, làm gì có lầu gác gì?” Hai người cùng nhìn bốn xung quanh, quả nhiên không thấy lầu đâu cả, chỉ thấy trong bức tường đổ có một cây đại thụ, cao tới mấy chục thước mà thôi. Hai người lại càng sợ hãi, lơ mơ không hiểu ra làm sao, hỏi bọn tuần đinh rằng: “Nhà ông Lương ở chỗ nào?” Bọn tuần đinh đáp: “Chúng tôi chưa từng biết đến người này, thì sao biết nhà ông ta ở đâu được? Hơn nữa, chỗ này là khu vườn hoang nhà quan bố chính họ Tôn, rất ít người qua lại, dù cho có nhà ai, thì cũng cách đây rất xa. Chỉ có cục hỏa dược (thuốc súng) là ở gần đây mà thôi. Lẽ nào xưa nay hai vị chưa từng nghe nói: “Vườn họ Tôn, Lắm ma chồn” ư? Có ai mà dám đến gần chỗ này chứ?” Hai người kinh hoảng, không dám động cựa một tí gì nữa.
Một hồi lâu, phía đông trời mới hơi hửng sáng, mảnh trăng tà đã ngả về tây, bỗng nhiên trông thấy trong bóng cây trên mặt đất, có một khoảng bóng đen đậm, phất phơ theo gió thổi, không giống như bóng cành lá, cũng chẳng phải là tổ chim, chẳng đoán ra được là vật gì. Ngẩng mặt nhìn lên trên cây, thấy thấp thoáng như bóng người. Tất cả mọi người đều kinh hãi, đứng dậy bỏ chạy, cách xa độ một tầm tên bắn, cùng dừng lại từ xa ngó nhìn phán đoán, nhưng vẫn không thể xác định được. Đến khi trời sáng hẳn, kẻ đó vần còn bám trên cành cây không cử động. Mọi người lại một lần nữa túm tụm lại quan sát, thì hóa ra không phải là người, mà là áo mão của hai vị Uông, Lưu, đang treo trên ấy, khi đó mới ai nấy cười ầm cả lên. Một người trèo lên cây lấy xuống, cho hai người mặc lại quần áo của mình vào, rồi ai nấy tự ra về. Một thời gian câu chuyện được truyền miệng ầm ỹ, thành chủ đề cho người ta đàm tiếu. Hai người Uông, Lưu không cam tâm chịu bị làm nhục, cho rằng Lương sinh dùng ảo thuật để trêu chọc bọn họ, bèn tụ tập bọn nô bộc hung hãn, kéo đến nhà chàng để hỏi tội. Nhưng khi đến cửa nhà Lương sinh, thì thấy cửa ngõ vắng lặng, không có một ai, không biết Lương đã bỏ đi đâu rồi.
Mấy năm sau, trong đám đồng học, có người cử nhân vào kinh ứng thí, trên đường Từ Châu ở Hà Bắc gặp được Lương sinh, chỉ thấy chàng mặc áo cừu, cưỡi ngựa tốt, cùng đám thị tòng lịch sự. Gặp nhau, ai nấy cùng kể nể nỗi biệt ly đã lâu ngày, Lương sinh lại mời bạn đồng học về nhà mình. Theo con đường nhỏ vắng vẻ đi độ vài dặm đường, đến một khu rừng rậm dưới chân núi, thì tiến vào một tòa nhà lớn, cảnh phú quý hệt như nơi thần tiên ở. Bạn học hỏi: “Nhân huynh phát đạt thế này từ khi nào?” Lương sinh cười nói: “Học huynh năm xưa a dua theo hai người Uông, Lưu, đem bạn nghèo ra làm câu chuyện đàm tiếu, bây giờ thử xem Lương mỗ ta còn bộ dạng của “Hy Tạ” nữa không?” Bạn học vô cùng hổ thẹn. Hôm sau, người bạn học lên nhà chào hỏi vợ Lương, thấy đích thực là một tuyệt đại giai nhân. Người bạn học lui chân rồi, quay sang Lương sinh nói: “Phu nhân của huynh dung mạo như vậy, chả trách Uông, Lưu phải táng tận lương tâm làm trò cầm thú. Nhưng phu nhân của huynh thực sự có diệu thuật gì, có thể chơi cho bọn họ một vố như vậy được?” Lương sinh nói: “Kẻ đọc sách mà không có đạo đức, chẳng đáng bị như vậy sao?” Qua vài ngày, thì bạn học sửa soạn hành lý cáo từ lên đường. Lương sinh mang ra một trăm lạng bạc tặng cho làm lộ phí, lại tặng cho một bài thơ, trong đó có câu: “A Tử tương y thiên tải kỳ” (Hồ ly nương tựa hẹn ngàn năm), khi ấy người bạn học mới biết Lương sinh lấy vợ hồ. Sau, người đó về kể lại chuyện với Uông, Lưu. Hai người lại nảy sinh lòng ham muốn, bèn sắm sửa ngựa xe thật tốt, bắt ép người bạn học cùng đi tìm Lương sinh. Đến nơi, chỉ thấy núi xanh như cũ, nước biếc còn nguyên, nhưng nhà cửa và người, thì đều không thấy bóng dáng đâu cả. Chỉ còn biết cùng nhau buồn bực mà trở về.
[1] Đào Chu: tức Phạm Lãi, người thời Xuân Thu, sau khi giúp nước Việt diệt nước Ngô, ông ẩn cư ở đất Đào, lấy việc kinh doanh buôn bán trở nên cực phú, tự xưng là Đào Chu công. Y Đốn: người nước Lỗ thời Xuân Thu, học được thuật làm giàu của Đào Chu công, cũng tích lũy được rất nhiều của cải.
[2] Tạ Hy Đại: một trong mười người bạn của Tây Môn Khánh trong tiểu thuyết Kim Bình Mai. Tạ Hy Đại vốn con nhà quan, nhưng cha mẹ mất cả, theo làm bạn với Tây Môn Khánh để hưởng nhờ. Vì Lương sinh có hoàn cảnh gần giống Tạ Hy Đại, nên bị gọi tên như vậy.
[3] Tây Tử Di Quang tức Tây Thi – Mỹ nhân nước Việt thời Xuân Thu. Vương Gia đời Tấn trong sách “Thập Di Ký” quyển 3, có viết: “Nước Việt có hai mỹ nhân, một người là Di Quang, một người là Tu Minh, đem cống cho nước Ngô”
[4] Điển cố: Bá Di, Thúc Tề, con vua nước Cô Trúc, vì không theo nhà Chu, nên từ chối “không ăn thóc nhà Chu”, ở ẩn trên núi Thú Dương, hái rau vi ăn thay cơm, sau chịu chết đói. Hai người có làm bài “Thái Vi ca”, người sau có phổ một cầm khúc gọi là “Thái Vi”
[5] Hồng Phất: tương truyền là nữ hiệp thời Tùy, Đường, vốn họ Trương, là thị kỹ của quyền tướng Dương Tố. Lý Tĩnh nhân vào hiến kế dẹp loạn cho Dương Tố, thấy có người thị thiếp xinh đẹp cầm phất trần đỏ nhìn mình. Sau người ấy biết Lý Tĩnh là kẻ anh hùng bèn trốn theo Lý Tĩnh đến Thái Nguyên, vì vậy mới đổi gọi tên là Hồng Phất. Hồng Tiêu: Nhân vật trong truyền kỳ đời Đường, cũng vốn là ca kỹ trong phủ quan nhất phẩm công thần, sau chạy theo Thôi sinh.
[6] Triệu Mạnh Phủ (1254 – 1322) tự Tử Ngang, hiệu Tùng Tuyết Đạo Nhân, Thủy Tinh Cung Đạo Nhân, Âu Ba, người Ngô Hưng, Triết Giang. Là nhà thư pháp, họa gia nổi tiếng đầu đời Nguyên. Chữ khải của ông tự lập thành một lối riêng gọi là Triệu khải, được nhiều nhà thư pháp đến nay còn lâm tập theo.
[7] Ô đầu: tên một vị thuốc trong đông y. Có lẽ có tác dụng khiến dễ ngủ.
Tuy vậy, khác với thế giới của Liêu Trai, trong Dạ Đàm tùy lục tác giả lại dùng một nét bút lạnh lẽo đen tối để miêu tả thế giới hồ ly ma quỷ. Thế giới ấy cũng đen tối xấu xa như thế giới con người. Trong khi Liêu Trai miêu tả một thế giới lý tưởng đẹp đẽ của hồ ma để phản đối lại hiện thực xấu xa, thì Dạ Đàm lại xem xứ sở ảo tưởng của hồ và ma chính là hình bóng của thế giới hiện thực xấu xí, và không hề lý tưởng hoá để nó trở nên tốt đẹp. Cùng là nói chuyện hồ ly ma quỷ, nhưng sự truy cầu mạnh mẽ, trong sáng đối với chủ nghĩa lãng mạn trong Liêu Trai, đã trở nên ảm đạm, thê lương trong Dạ Đàm. Thay vào đó là những ý tứ của một chủ nghĩa hiện thực lạnh lẽo, dữ dằn, và đau thương. |