Sự kiện & Bình luận

Kỷ niệm Tuy Hòa

Vũ Công Chiến
Bút ký phóng sự 08:00 | 01/05/2025
Baovannghe.vn- Hai trung đoàn chủ lực của ta nhận nhiệm vụ đánh chiếm thị xã Tuy Hòa. Trung đoàn 9 chúng tôi sẽ đánh thị xã từ hướng Nam phía cầu Đà Rằng có đồi Nhạn Tháp. Tiểu đoàn chúng tôi là chủ công của trung đoàn nên được làm mũi xung kích. Đêm 31 tháng 3, chúng tôi theo chân du kích dẫn đường lần ra sông Ba rồi cứ men theo bờ phía Bắc đó mà tiềm nhập áp sát cầu Đà Rằng.
aa

Cơn gió lốc của cuộc truy kích địch trên cao nguyên miền Trung tháo chạy theo liên tỉnh lộ 7B cuối tháng 3/1975 đã cuốn chúng tôi về đến đồng bằng Phú Yên. Trong đội hình rút chạy, ngoài các đơn vị trợ chiến, địch vẫn còn khoảng một trung đoàn bộ binh, nhiều đơn vị thiết giáp và một Liên đoàn Biệt động quân Biên phòng. Bị chặn đánh tại thị trấn Củng Sơn, quân địch bị thiệt hại nặng, nhưng vẫn còn một số lớn lọt về đến thị xã Tuy Hòa của tỉnh Phú Yên. Chúng cùng lực lượng tại chỗ co cụm lại trong thị xã để chống trả quân giải phóng. Lúc này Đà Nẵng và Quảng Ngãi đã được giải phóng. Phía bắc Phú Yên chỉ còn có tỉnh Bình Định vẫn do quân ngụy chiếm giữ và làm lá chắn tạm thời cho Phú Yên.

Kỷ niệm Tuy Hòa
Minh họa Đào Quốc Huy

Hai trung đoàn chủ lực của ta nhận nhiệm vụ đánh chiếm thị xã Tuy Hòa. Trung đoàn 9 chúng tôi sẽ đánh thị xã từ hướng Nam phía cầu Đà Rằng có đồi Nhạn Tháp. Tiểu đoàn chúng tôi là chủ công của trung đoàn nên được làm mũi xung kích. Đêm 31 tháng 3, chúng tôi theo chân du kích dẫn đường lần ra sông Ba rồi cứ men theo bờ phía Bắc đó mà tiềm nhập áp sát cầu Đà Rằng. Trên bờ cát ven sông toàn là ruộng dưa hấu. Những quả dưa đã già đến độ, to như chiếc mũ sắt nằm lăn lóc khắp ruộng. Phía Đông nhìn rõ cây cầu Đà Rằng vắt ngang sông Ba. Hai bên thành cầu sáng rực đèn pha. Nhiều tốp lính ngụy canh gác đi lại trên cầu, chốc chốc lại quăng lựu đạn xuống lòng sông nhằm ngăn đặc công nước đánh cầu. Nhìn những cột nước dựng lên liên tiếp dưới lòng sông, tôi thầm nghĩ: “Kiểu này chắc quanh chân cầu chẳng có con cá nào sống nổi”. Gần đến khu vực cầu, chúng tôi rẽ vào một thôn nhỏ. Đèn trong các nhà đều tắt, tối om, nhưng chúng tôi biết người dân chắc không ngủ. Đây là vùng địch, nhưng những người dân có lẽ đã biết rõ tình hình chiến sự, quân giải phóng đang thắng lớn khắp nơi và truy đuổi quân ngụy hết tỉnh này qua tỉnh khác như một cơn lốc, nên họ thu mình lại trong nhà để tránh tên bay đạn lạc. Còn tụi chính quyền thôn ấp, chắc cũng tự tan rã hết rồi.

Mờ sáng ngày 1/4/1975, chúng tôi đã nép mình chiếm lĩnh ven các bờ ruộng và con mương gần một bốt điện nhỏ chỉ cách quốc lộ 1 đầu cầu Đà Rằng có một trăm mét. Tụi địch đã co quân lại sát trục đường 1, chứng tỏ chúng cũng đang nao núng trên con đường tháo chạy. Chúng tôi dàn hỏa lực DK và cối 82, cối 60 chuẩn bị giờ nổ súng.

5 giờ, trời đã sáng rõ mặt người. Vẫn như thời gian mở màn các trận công đồn quen thuộc, chúng tôi được lệnh nổ súng. Đạn DK cấp tập một loạt vào hướng con đường bốt điện, còn cối 82 và cối 60 tập trung bắn lên con lộ 1 đầu cầu Đà Rằng. Đèn trên cầu Đà Rằng tắt ngấm, bọn địch bắt đầu xả súng bắn trả. Trên ngọn Nhạn Tháp, một khẩu DK của địch cũng dập đạn về hướng chúng tôi. Do bị độ cong của quả núi và dãy nhà ven đường 1 chắn tầm nhìn nên chúng chỉ bắn được ra xa, về phía sau lưng chúng tôi. Đại đội tôi được lệnh áp sát lên để tránh đạn DK của địch. Cả đại đội dồn B40 và B41 bắn cấp tập lên đường 1, rồi chúng tôi xung phong. Quân địch vốn đang hoang mang lại không có công sự ẩn tránh nên tan rã nhanh chóng. Chỉ 20 phút tính từ lúc nổ súng, chúng tôi đã chiếm lĩnh được mặt đường 1. Trên đường 1 và mặt cầu Đà Rằng chỉ còn lại một số xác lính. Bọn địch đã rút vào trong thị xã. Tôi dẫn trung đội theo con đường nhựa đánh thẳng lên khu đồi Nhạn Tháp. Trên căn cứ này vốn chỉ có một khẩu đội pháo 105 của địch kèm một trung đội bộ binh bảo vệ. Tụi lính pháo binh đã bỏ chạy hết. Đám bộ binh chỉ còn lại mươi tên, chống cự yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng. Chúng tôi làm chủ khu Nhạn Tháp cũng chỉ trong vòng hai chục phút, không có ai bị thương vong. Bộ đội địa phương cũng nhanh chóng theo chân chúng tôi và tiếp quản tù binh.

Lực lượng chính của đại đội tôi và các đại đội khác trong tiểu đoàn tiếp tục theo đường 1 tiến vòng ra sau Trường Kỹ nghệ, theo một con đường lớn đánh dọc ra biển. Cạnh con đường này ở bên trái có một bệnh viện cao hai tầng, đầy thương binh của địch. Các nhóm tàn quân địch rút về và trụ lại đây chống trả. Chúng đặt đại liên M60 trên tầng gác bắn xối xả xuống mặt đường làm tiểu đội xung phong đầu hi sinh gần hết. Súng B40 không bắn được lên cao vì góc tạt lửa rất thấp. Đơn vị tôi chỉ còn AK và cối cá nhân M79, chia thành nhiều tốp nhỏ yểm hộ nhau đánh lấn lên tiếp cận tiêu diệt địch, làm chủ khu bệnh viện. Tiểu đoàn đánh tiếp thẳng ra biển. Tụi lính địch tháo chạy ra biển đã vứt lại trên con đường sát biển ngổn ngang xe ôtô các loại và đầy vũ khí, quân trang quân dụng. Chúng theo các xuồng, thuyền chèo ra một chiếc tàu biển neo đậu ngoài xa. Rất nhiều tên không có thuyền cũng ào xuống tự bơi và chắc bị chết đuối cũng nhiều. Những tên không bơi kịp bị bộ đội ta truy kích đến nơi phải quay lại đầu hàng. Quân ta cũng không bắn theo tụi đã bơi ra xa vì đã ngoài tầm đạn.

Trên đỉnh Nhạn Tháp, chúng tôi nhặt được ống nhòm và quan sát rõ tất cả. Vài chiến sĩ trong trung đội đề nghị tôi cho quay hướng nòng khấu pháo 105 ly thu được của địch để bắn đại ra biển, tiêu diệt bọn địch đang bơi ngoài biển bằng sức ép. Tôi nghĩ một lát rồi không đồng ý. Phần vì trong trung đội tôi không ai biết sử dụng pháo 105 ly, phần nghĩ rằng những người đang bơi trên biển là những kẻ đường cùng trong tay không có vũ khí, bắn thế thì tàn nhẫn quá. Chúng tôi chỉ chia nhau nghỉ ngơi, canh gác, lục tìm trong các hầm ở căn cứ tìm đồ ăn bữa trưa. Buổi chiều có nhiều người dân lên căn cứ Nhạn Tháp làm quen chúng tôi. Trên khu căn cứ này lúc địch rút chạy còn bỏ lại khoảng chừng ba chục chiếc xe máy loại Honda nữ 50cc, và Honda 67. Nghĩ rằng chúng tôi còn theo đường 1 chiến đấu tiếp, chả kịp bàn giao gì cho các đơn vị bộ đội địa phương có lực luợng ít mà thị xã lại quá rộng, nên khi những người dân ngỏ ý xin, chúng tôi đã cho hết.

Chiều tối, theo lệnh trên, chúng tôi nhập vào cánh quân chính của đại đội và rút tạm ra ngoài thị xã. Chúng tôi lại về một thôn nhỏ nằm trên con đường mà đêm qua lúc tiềm nhập chúng tôi đã đi qua, cách thị xã Tuy Hòa chỉ chừng 3 cây số. Trung đội tôi được sắp xếp vào ở nhờ một nhà dân. Nhà khá rộng, có sân gạch, giếng nước. Khoảng hè và một góc sân nhỏ đủ cho hơn chục người trong trung đội chúng tôi trải nilon nghỉ qua đêm. Đây là lần đầu tiên kể từ khi vào chiến trường, tôi được nghỉ đêm tại một nhà dân, trên một cái sân gạch sạch sẽ giống như những sân gạch quê tôi.

Gia đình chủ nhà có hai ông bà già, một cô gái 18 tuổi tên là Hoa và dưới đó là lóc nhóc tám chín đứa trẻ cả trai lẫn gái. Người miền Nam đẻ nhiều con thật. Họ niềm nở mời chúng tôi quét dọn sân lấy chỗ nghỉ, giúp chúng tôi kéo nước ngoài giếng và chỉ chỗ bếp cùng củi cho chúng tôi nấu cơm. Bà chủ nhà còn cắt hai quả bầu to trên giàn đưa cho chúng tôi làm thức ăn. Thật là quý hóa. Thế là chúng tôi mượn nồi to rồi phân công nhau nấu cơm và tranh thủ nghỉ ngơi. Từ lúc đánh đuổi địch trên đường 7B ở Cheo Reo, chúng tôi đã lấy được rất nhiều gạo của địch và nấu ăn thoải mái theo ý thích, không phải hạn chế. Khi chúng tôi nấu cơm xong, gia đình nhà chủ cũng vừa dọn cơm để ăn. Lúc này tôi mới để ý là không hiểu nhường cả nồi và bếp cho chúng tôi rồi thì gia đình nấu bằng gì, vào lúc nào. Tôi lại gần thì mới phát hiện ra cả nhà ông bà chủ, số người đông không kém gì trung đội chúng tôi đang ngồi ăn bánh đa. Tôi đã nghe nói trong các gia đình nông thôn miền Nam thường hay ăn thêm bánh đa nướng trong bữa cơm, nhưng sao ở đây chỉ có bánh đa mà không có cơm. Tôi cố gặng hỏi mãi bà chủ nhà mới cho biết gia đình đã hết gạo, mấy bữa nay chỉ còn ít bánh đa đem ăn dần. Thế là tôi liền quyết định dồn chung cả trung đội chúng tôi và gia đình nhà chủ làm thành một mâm dài giữa sân và cùng ăn chung. Tất cả mọi người đều ăn cơm và bánh đa. Thức ăn thì chỉ có nồi canh bầu to. Không khí bữa ăn thật vui vẻ và đầm ấm. Kết thúc bữa cơm, mọi thứ đều nhẵn như chùi.

Sau bữa cơm, chúng tôi còn cùng gia đình đun nước pha chè uống. Loại chè gói miền Nam có tên Blao, chúng tôi mới lấy được của địch khá nhiều khi đánh vào Cheo Reo. Cô Hoa là tâm điểm cho cả đám lính chúng tôi trêu chọc, cười đùa. Không khí thật vui vẻ, chẳng ai nghĩ rằng chúng tôi vừa mới đi qua một trận chiến đấu cách đây chỉ có hơn chục tiếng đồng hồ.

Đêm hôm đó, chúng tôi thức rất khuya. Nửa đêm, Hoa vẫn còn đun nước để đổ dần vào bi đông cho trung đội chúng tôi. Tôi vào bếp ngồi nói chuyện với Hoa. Bếp đun củi với mấy hòn đất làm kiềng thì chắc khắp đất nước mình giống nhau. Rì rầm nói chuyện, rồi Hoa mới cho biết cô còn có hai người anh là lính ngụy hôm qua còn gác trên cầu Đà Rằng, bữa nay không biết sống chết ra sao. Thảo nào mà lúc chiều anh du kích thôn cứ ngần ngừ một lúc lâu rồi mới quyết định dẫn trung đội chúng tôi vào đây nghỉ nhờ qua đêm. Bộ đội giải phóng đông quá, chứ nếu không, chắc anh không phải nhờ đến gia đình này. Tôi an ủi Hoa, nhưng thực tình lúc đó cũng không biết nói gì. Chúng tôi đang là người chiến thắng, quân lính Sài Gòn đang tan rã và những người lính đang tìm cách trở về nhà. Cũng có người tìm cách lẩn trốn vì họ sợ bị phía giải phóng trả thù. Tôi cũng nuôi hi vọng cho Hoa là trong trận đánh sáng nay quân Sài Gòn chạy là chính, số bị chết rất ít.

Chuyện vẩn vơ, và rồi tôi còn được biết hai quả bầu gia đình cắt cho chúng tôi nấu ăn lúc tối là hai quả bầu cuối cùng trên giàn mà gia đình định giữ làm giống. Tôi cảm động và cảm ơn Hoa.

Sáng sớm hôm sau, tôi hội ý với anh em trong trung đội, rồi tổ chức nấu thật nhiều cơm, đủ để nắm cho mỗi chúng tôi một nắm cơm ăn trưa, còn lại thì ăn sáng với gia đình. Thức ăn chỉ có muối rang, nhưng như thế cũng quý rồi. Chúng tôi còn san lại cho gia đình chủ nhà cả chục cân gạo. Sau đó chúng tôi tập trung rồi hành quân tiếp cùng cả đơn vị. Cả đại đội được lệnh tảo thanh khu Nam thị xã Tuy Hòa và tổ chức canh gác cầu Đà Rằng.

Cùng với Phú Yên, Bình Định cũng đã được giải phóng. Trên đường 1 lũ lượt một dòng xe đò, xe tải chở đầy người từ phía Bắc di tản vào trong Nam. Chúng tôi biết người dân đang chạy “giặc” vì chưa hiểu bộ đội giải phóng, nhưng chúng tôi cũng không có quyền ngăn cản, chỉ khuyên họ một đôi câu rồi phải mở barie cho họ đi qua. Riêng những thanh niên và đàn ông trung niên, chúng tôi bắt quay trở lại hướng Bắc hết. Trong số họ có rất nhiều người là lính Sài Gòn đã mặc thường phục để tìm cách chạy vào Sài Gòn. Cũng có thể họ tìm cách về nhà trong đó thật, nhưng nếu vào trong đó họ lại đầu quân trở lại vào các đơn vị thu dung của địch thì rất không hay cho chiến sự. Vì thế chúng tôi giữ lại hết rồi tạm giao cho bộ đội địa phương quản lí. Lúc khoảng mười giờ, tôi thấy một ông già cứ tìm cách khóc lóc van xin bộ đội cho qua cầu Đà Rằng sang quận Hiếu Xương ở bờ Nam sông Ba mà không được. Tôi lại gần và nhận ra ông chủ nhà tối qua. Thấy tôi, ông nắm tay tôi mừng rối rít và cho tôi biết ông muốn sang đó tìm hai đứa con trai. Phần nể nang, phần nghĩ điều đó không hại gì nên tôi đã đưa ông qua cầu sang bờ phía Nam để cho ông đi tìm con.

Gần như cả ngày hôm đó chúng tôi chỉ lùng sục quanh các khu phố ở thị xã. Nhà nào có người, chúng tôi chỉ hỏi qua, rồi tuyên truyền chính sách an dân vùng giải phóng của cách mạng. Rất nhiều nhà vô chủ. Chúng tôi chỉ vào những nhà không khóa cửa. Thật là tội nghiệp. Nhiều người dân đã hoảng loạn bỏ chạy, chỉ đem theo các đồ nhẹ, còn các thứ khác vẫn nguyên. Hầu như trong các nhà đó, chúng tôi đều có cảm giác như họ vừa mới đi thôi, mọi đồ sinh hoạt như đang dở dang. Buổi trưa nghỉ chân trong một căn nhà như thế, tôi đã tò mò giở xem mấy cuốn truyện trên giá sách. Phần lớn là truyện của các văn sĩ Sài Gòn. Có một cuốn truyện mang tên Châu Cooc của nhà văn Duyên Anh viết theo giọng tự kể của một vũ nữ, nội dung phơi bày cả một mảng đời sống xã hội của một lớp quan chức chính quyền và kẻ có tiền trong chế độ Sài Gòn. Tôi còn thấy một cuốn nhật kí và đã tò mò xem. Chủ nhân của nó là một nữ sinh đang học tú tài bán phần. Nhẩm ra thì cô ấy cũng chỉ kém tôi có dăm sáu tuổi. Lời lẽ học trò, câu chuyện trường lớp và bạn bè khiến tôi đọc mà mụ người đi. Trong một khoảnh khắc nào đó, tôi đã quên mình là một người lính đang ôm khấu AK trong lòng, mà tưởng như đang còn là học sinh và đang nghe lời thầm thì của một cô bạn trong lớp cấp 3 thuở nào. Tôi rất muốn lấy một cuốn truyện, hay cuốn nhật kí của cô nữ sinh không quen biết đó để làm kỉ niệm chiến tranh. Tôi sẽ viết một bức thư để lại cho người bạn chưa quen biết ấy, kể cho cô ấy biết có một người lính Bắc Việt trên đường chinh chiến đã mạo muội nghỉ chân nhờ trong nhà cô ấy vào một buổi trưa, đã mạn phép xem truyện và nhật kí của cô, đã có những cảm xúc bột phát trong tưởng tượng về cô, và lại mạo muội lấy đi của cô một cuốn sách để làm kỉ niệm. Trái đất tròn, biết đâu sau này chẳng có lúc được gặp nhau.

Nhưng cuối cùng tôi không làm điều gì cả. Ai biết chiến tranh còn kéo dài tới bao giờ, dù lúc này quân ta đang thắng lớn. Rồi sau này có người phát hiện ra việc tôi làm, quy tội vi phạm chính sách, ủy mị này khác cho mình thì biết phân bua thế nào.

Buổi chiều, tôi dẫn trung đội đi tiếp sang các khu phố khác. Hầu như chúng tôi chỉ kiểm tra được tình hình chung nào đó chứ không phát hiện ra lính ngụy lẩn trốn hay có vũ khí trong các gia đình nhà dân. Trong cả ngày, tình hình như có vẻ ổn.

Buổi chiều hôm qua khi khói súng vừa tan, sau lưng bộ đội giải phóng và du kích địa phương, đã có những kẻ đi hôi của. Chủ yếu là đám thiếu niên, phụ nữ và vài người lớn tuổi. Họ đã phá tung cả một chi nhánh ngân hàng ngay phía đầu vào thị xã và cướp tiền. Bộ đội chúng tôi còn mải nhiệm vụ chiến đấu nên cũng không can thiệp. Một vài cửa hàng cũng bị cướp phá, không phải do tụi lính ngụy, mà do những người dân bất hảo gây ra.

Ngày hôm nay tình hình có vẻ yên vì lực lượng bộ đội giải phóng và du kích địa phương đang kiểm soát. Ngoài những cửa hàng vô chủ đã bị phá hôm trước, các nhà dân dù vô chủ vẫn giữ yên lành. Chắc bây giờ chúng tôi sẽ không ngần ngại nổ súng tiêu diệt những kẻ cướp bóc đó, nếu bắt gặp.

Buổi tối, trung đội tôi được lệnh nghỉ lại tại Trường Kỹ nghệ phía Nam thị xã. Những người quản lí ở đây đã bỏ chạy hết. Tôi vào trong khu phòng thí nghiệm và giảng dạy, thấy rất nhiều dụng cụ mô phỏng cho học tập. Tôi đã say mê ngẩn người ra trước những sơ đồ mô phỏng rất sinh động của các loại mạch điện, của ôtô, của động cơ đốt trong hay máy phát điện. Những thiết bị thật hẳn hoi được gắn trên những tấm mica lớn kèm theo nét vẽ sơ đồ, có đèn điện nhấp nháy tạo cho người xem hình dung rất rõ cấu tạo, nguyên lí cũng như quá trình hoạt động của nó ra sao. Nhớ lại ngày học phổ thông, giáo cụ trực quan của chúng tôi cũng chỉ là những hình vẽ trên giấy khổ lớn, thiếu hẳn sự sinh động, nếu trí tưởng tượng hạn chế thì cũng chẳng hiểu được bao nhiêu. Nếu học sinh chúng tôi mà cũng được học trên những đồ dùng học tập như ở đây thì sẽ hiểu bài nhanh biết bao. Tự nhiên tôi nghĩ quẩn, nếu mình lấy được những thứ này đem về gửi tặng ngôi trường phổ thông mình đã học thì sẽ là một món quà vô giá trong chiến tranh để giúp cho những lớp học sinh đàn em. Tôi biết là khi chúng tôi rút đi khỏi đây mà chẳng bàn giao được cho ai, vì lực lượng địa phương cũng chẳng có đủ người mà tiếp quản, thì những thứ quý giá này rồi cũng bị lấy cắp hay phá hỏng hết. Nhưng thôi, tiếc cũng chẳng làm gì vì có ai trong chúng tôi biết được chiến tranh còn kéo dài đến bao giờ đâu.

Sau Trường Kỹ nghệ có một khu đất nhỏ trồng toàn rau muống, chắc của những nhân viên ở đây trồng để cải thiện bữa ăn. Nghĩ để mọc già cũng phí, lại vô chủ nên chúng tôi đã mạn phép hái và nấu cho cả trung đội một bữa toái loái. Lần cuối cùng chúng tôi được ăn rau muống có lẽ cũng cách đây đến gần 4 năm rồi. Lính tráng sống trên rừng thì lúc nào mà chả thèm rau. Chỉ là món rau muống luộc chấm nước muối có pha mì chính thôi mà sao ngon thế, cả trung đội chén sạch chẳng bỏ lại cọng nào.

Thị xã về đêm có vẻ yên ắng, nhưng không yên tĩnh. Thị xã được giới nghiêm về ban đêm. Bộ đội đã tổ chức các nhóm tuần tra 3 người đi tuần dọc theo các phố và lập nhiều chốt gác. Nhưng lác đác có vài vị cán bộ chủ quan đi lẻ từ khu này sang khu khác đã bị bắn tỉa. Khi đơn vị chính được điều đến kiểm tra lục soát thì lại chẳng phát hiện được gì. Chúng tôi đành co cụm lại vì không có kinh nghiệm chiến đấu trong trường hợp như thế này.

Ngày hôm sau, chúng tôi vẫn tiếp tục công việc tảo thanh. Thị xã trở lại nếp sinh hoạt cũ một cách nhanh chóng. Tại các khu căn cứ cũ của địch vẫn chỉ có bộ đội giải phóng, người dân ít đi lại trên đường phố, nhưng lác đác đã có hàng quán mở cửa bán các đồ tạp hóa hay ăn uống. Chúng tôi được lệnh không vào các cửa hàng đó.

Đầu giờ chiều, chúng tôi được phổ biến chiều tối sẽ tập kết về khu vực ngoại thị hôm trước để hành quân tiếp vào phía trong. Tôi chợt nhớ đến gia đình cô Hoa mà chúng tôi nghỉ nhờ đêm trước, và nảy ra một ý định táo bạo, sẽ lấy một ít gạo trong kho của địch để giúp cho gia đình cô ấy. Tôi dặn lại trung đội tập trung chốt giữ một vị trí gần cầu Đà Rằng rồi dẫn Thanh Sai, một chiến sĩ trong trung đội đi ra đường cái. Lúc này trên các con đường của thị xã Tuy Hòa, ngoài các xe vận tải quân sự chở hàng và người của bộ đội, còn có nhiều du kích địa phương đeo băng đỏ mang súng AR15 đi trên các xe Jeep cũ của địch chạy quanh các con đường. Họ vừa biểu dương lực lượng, vừa đi tiếp quản các vị trí, nhất là các khu kho hàng của địch. Tôi vẫy một chiếc xe Jeep chạy qua và yêu cầu chở chúng tôi đến kho gạo. Người lái xe cùng hai du kích trên đó đã vui vẻ chở chúng tôi chạy thẳng theo con đường lớn ra biển. Dọc theo biển Tuy Hòa là cả một khu quân sự với nhiều kho hàng lớn của địch. Chúng tôi chia tay tại bãi biển. Biển Tuy Hòa lộng gió nhưng sóng nhỏ. Trên bờ cát la liệt quần áo và quân trang quân dụng của lính ngụy vứt bỏ lúc tháo chạy hôm trước. Tôi và Sai chạy ào xuống nước, để nguyên quần dài lội ra ngập đến đầu gối. Chúng tôi cùng khỏa nước và cười vang. Tôi bảo Sai: “Thế là bàn chân bọn mình đã đi ngang qua đất nước từ rừng Trường Sơn đến Biển Đông rồi đấy”. Sai cũng cười và đập nước tung tóe.

Chúng tôi đi vào khu kho và tìm đến kho gạo. Cả một nhà kho dài chứa đầy các bao tải gạo loại 45kg bằng vải dứa trắng, có ghi chữ Thái Lan. Một nhóm 3 người thanh niên mặc đồ thường phục đeo băng đỏ, đội mũ tai bèo, khoác túi dết và cầm sổ tay ghi ghi chép chép, sau đó chỉ tay và ra lệnh cho mấy nhóm người bốc gạo đưa lên hai chiếc xe Jeep đậu ngoài cửa. Tôi tiến vào yêu cầu lấy hai bao gạo. Người thanh niên lớn tuổi hơn có lẽ là phụ trách nhìn tôi hơi có vẻ ngỡ ngàng, rồi giải thích đây là kho gạo đang cấp cho các đơn vị du kích địa phương, không phải của bộ đội. Tôi biết trong tình tình à uôm này thì mọi quy định chỉ là ước lệ, nên tôi nói đại tên đơn vị và bảo anh ta, chúng tôi là nhóm trinh sát tiền trạm cần đi gấp, không thể chờ xe hậu cần bộ đội được yêu cầu giúp đỡ. Tôi nhấn mạnh thêm là bằng bất cứ giá nào chúng tôi cũng phải có gạo cho bộ đội hành quân. Tôi biết cái kho to lớn này lực lượng địa phương mới tiếp quản nên cũng chưa thể kiểm kê kiểm soát hết được, nên cũng không thể nguyên tắc với chúng tôi. Vả lại thấy chúng tôi nói giọng Bắc, nét mặt hầm hầm, AK lăm lăm trong tay nên anh ta chùng giọng xuống bảo người bên cạnh kéo hai bao gạo ra cửa kho cho chúng tôi. Anh ta còn hỏi tôi: Đồng chí chở gạo bằng gì? Đang loay hoay chưa biết mang đi bằng cách nào thì một cậu thanh niên trên chiếc xe Jeep phía ngoài đã lên tiếng lởi xởi: “Xe tụi em ra ngoài cầu Đà Rằng đây, mấy anh có qua hướng đó thì đi cùng tụi em”. Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi mừng rỡ líu ríu cảm ơn anh ta rồi cùng mấy người bỏ hai bao gạo lên xe. Xe của anh ta có ba người, cũng chỉ chở có hai bao gạo, thêm chúng tôi và hai bao gạo nữa cũng không chật lắm. Chúng tôi leo lên xe ngồi xoài lên những bao gạo.

Xe chạy tới đầu cầu Đà Rằng thì gặp chốt của trung đội tôi. Chúng tôi vần gạo xuống đất, cảm ơn và chia tay. Chiếc xe Jeep lại chạy lên cầu qua bờ nam sông Ba. Anh em trong trung đội tôi tròn xoe mắt nhìn, không hiểu tôi và Sai lấy đâu ra gạo, và định làm gì. Tôi nói ý định và mọi người nhất trí luôn.

Cuối chiều hôm đó, một chiếc xe tải GMC đến đón trung đội tôi về vị trí tập kết của đại đội. Chúng tôi sẽ ăn cơm tối tại bãi cỏ đầu thôn để tối còn hành quân luôn. Tôi và Sai tranh thủ lấy 2 chiếc xe đạp mà chúng tôi đã lấy theo lúc chiều ở khu Trường Kỹ nghệ chở 2 bao gạo đem vào nhà Hoa, cũng chỉ cách đó dăm trăm mét. Chúng tôi nói ý định với gia đình và tặng luôn cả gạo và xe đạp rồi quay ra, cũng không kịp uống chén nước. Bà chủ nhà cứ nắm lấy tay tôi cảm ơn và rơm rớm nước mắt. Hoa đứng bẽn lẽn ở góc sân, lí nhí chào chúng tôi.

Việc làm của chúng tôi cả đại đội đều biết.

Đêm đó chúng tôi hành quân bằng xe GMC ngược lại Cheo reo Phú Bổn. Chúng tôi trở lại đường 14, hành quân qua Ban Mê Thuột, xuống Lâm Đồng rồi về Bình Dương chuẩn bị đánh căn cứ Đồng Dù. Khi đã yên vị, có thời gian, anh Mỵ chính trị viên đại đội mới gọi tôi ra phê bình. Anh bảo việc lấy gạo giúp dân của tôi về ý định thì đúng, nhưng cách làm lại sai, vô tổ chức. Cả thôn đó cần cứu trợ chứ đâu chỉ có riêng gia đình mà trung đội cậu trú quân. Đáng lẽ phải báo cáo cấp trên, làm việc gì cũng phải có chủ trương, mệnh lệnh và tập thể chứ. Cậu làm thế là cá nhân chủ nghĩa, bột phát, có khi lại gây mất đoàn kết trong dân vì nhà được nhà không, khiến họ nghĩ là bộ đội có người này tốt, người kia không tốt. Tôi chỉ biết im lặng nhận lỗi, nhưng vẫn nghĩ việc làm của mình cũng không phải là xấu, nên chẳng mấy bận tâm. Những trận chiến đấu vẫn còn đang chờ chúng tôi phía trước.

*

Miền Nam được giải phóng. Hai năm sau tôi được ra quân. Trên đường ra Bắc, tôi có ghé qua thị xã Tuy Hòa. Tôi đã đến đúng cái bãi cỏ mà trong buổi tối cuối cùng ở đây ngày trước, cả đại đội tôi đã ăn cơm và lên xe hành quân. Chỗ này cách nhà cô Hoa mà chúng tôi đã trú quân đêm 1/4/1975 không xa. Tôi trở ra Bắc, về nhà rồi thì chắc cũng không còn có dịp vào đây nữa. Vì thế, tôi định tìm vào nhà Hoa thăm cô và gia đình lần cuối, xem họ sinh sống ra sao. Có lẽ khi nhận ra tôi, họ cũng sẽ rất vui mừng. Tôi rẽ vào quán nước đầu làng uống chén nước. Vài người dân trong quán nhìn tôi bình thản, nhưng tôi lại nhìn thấy trong mắt họ một sự dè dặt và nghi ngại. Tôi lặng im ngồi uống nước, nghe chuyện họ và suy nghĩ một chút.

Không kể những người lính, sĩ quan và công chức chế độ Sài Gòn đã vội vã di tản lúc tàn chiến cuộc, còn có rất nhiều gia đình có người phải đi học tập và cải tạo, vì người dân miền Nam sống dưới chế độ Sài Gòn thì có mấy nhà mà không liên quan cho được. Lúc mới giải phóng chúng tôi vẫn phải đóng quân nhờ nhà dân và chúng tôi đã tưởng là mình được sống trong lòng nhân dân như ở hậu phương miền Bắc. Thực tế không hoàn toàn vậy. Trong lòng dân ở đây, chúng tôi phải chọn nhà không bị liên quan hay chỉ liên quan ít đến ngụy quân, ngụy quyền để ở nhờ. Chúng tôi đã thấy, dù là nhà nông thôn thì cuộc sống của người dân trong Nam vẫn có gì đó khác hơn nông thôn miền Bắc. Họ có nhiều thứ đồ dùng mà ngoài Bắc không có. Có những thứ ban đầu lính tráng chúng tôi còn không hiểu là cái gì. Vì thế mà khi về phép, những người lính thường có ước muốn mua được thứ quà gì đó đem về, bởi lúc này chúng tôi đã được phát chút tiền phụ cấp. Lính tráng tìm mua các khung xe đạp cũ mà nhiều gia đình nông thôn miền Nam đã gác bếp từ lâu vì không dùng đến, hay tìm mua các đài bán dẫn cũ trong các làng dân tộc đã lâu không dùng vì không có pin. Còn búp bê thì mua ngoài thị trấn, chỗ nào cũng có bán. Đó là ba thứ hàng được lính ta ưa thích. Có điều tiền ít nên phải lùng và làm sao mua được thật rẻ. Nếu gặp được ai quý mình mà tặng cho thì càng tuyệt, nhưng phải báo cáo đơn vị cẩn thận để khỏi bị tịch thu. Mua và chờ đợi đến lượt về phép.

Nhưng ở đời cái gì thái quá cũng bất cập. Sự việc như thế ở mọi nơi, mọi đơn vị đã làm cho người dân miền Nam nhìn bộ đội giải phóng bằng con mắt khác. Họ cười cái sự nghèo nàn của miền Bắc, cười cái sự ngây ngô và thèm muốn của đám lính Bắc đối với những thứ mà đối với họ thì lại quá tầm thường. Họ không còn tin nhiều lắm vào sự tuyên truyền và hứa hẹn tương lai của cán bộ miền Bắc. Họ ghét lây và coi thường cả những người lính giải phóng…

*

Tôi cứ ngồi miên man nghĩ như thế, rồi quyết định không vào thăm gia đình Hoa nữa. Tôi không muốn họ lúng túng, họ coi mình trở nên tầm thường như cái cảnh người lính đeo balô có buộc con búp bê và chiếc khung xe đạp vác trên vai mà họ vẫn nhìn thấy. Cũng có thể tôi đã nghĩ sai về lòng tốt của họ thì sao? Nhưng thôi, hãy để cho hình ảnh những người lính giải phóng vui vẻ và ồn ào trong đêm trú quân tại nhà họ năm xưa và đã giúp đỡ họ, trở thành một câu chuyện huyền thoại đẹp trong lòng họ. Cứ để họ chờ đợi, hay cho rằng những người lính đó đã ngã hết trên đường tiến quân, không còn ai trở về, để lại sự thương tiếc trong lòng họ, lại chẳng hay hơn sao. Một bức tranh đẹp, một câu chuyện đẹp, không nên để cho nó bị hoen ố.

Tôi đứng đây, khoác balô và ra bến xe, trở về nhà.

Kỉ niệm Tuy Hòa đã lùi dần mãi vào dĩ vãng trong tôi.

Ghi nhận và tôn vinh những anh hùng thầm lặng

Ghi nhận và tôn vinh những anh hùng thầm lặng

Baovannghe.vn - Bộ Y tế phối hợp Ban Chỉ đạo quốc gia vận động hiến máu tình nguyện, Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Viện Huyết học -Truyền máu Trung ương vừa tổ chức Lễ tôn vinh người hiến máu tình nguyện tiêu biểu toàn quốc năm 2025.
Nhà nghỉ. Truyện ngắn của Thu Loan

Nhà nghỉ. Truyện ngắn của Thu Loan

Baovannghe.vn - Minh, sinh viên ngoại ngữ bằng giỏi, tốt nghiệp hơn năm, mang hồ sơ đến đâu cũng nhận vẻ mặt lãnh đạm và cái lắc đầu. Cách đây mấy năm, các trung tâm, lớp học ngoại ngữ rộ lên như nấm sau mưa.
Nhà báo Hà Đăng ra mắt sách ở tuổi 96

Nhà báo Hà Đăng ra mắt sách ở tuổi 96

Baovannghe.vn - Chiều 5/6, Báo Nhân Dân phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã tổ chức lễ ra mắt cuốn sách Tinh hoa cách mạng Việt Nam của nhà báo lão thành Hà Đăng.
Vó ngựa. Truyện ngắn của Vũ Thị Huyền Trang

Vó ngựa. Truyện ngắn của Vũ Thị Huyền Trang

Baovannghe.vn - Đầu chị bây giờ biến thành chiếc máy phát nhạc. Lộp cộp. Lộp cộp. Lộp cộp. Cứ rệu rã một cách đều đặn như thế suốt hai tư tiếng đồng hồ, kể cả trong giấc ngủ chập chờn.
Bỏ khối C00: Sự thu hẹp của Khoa học xã hội và nhân văn?

Bỏ khối C00: Sự thu hẹp của Khoa học xã hội và nhân văn?

Baovannghe.vn - Khối C với tổ hợp C00 gồm 3 môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý vốn là tổ hợp gốc của nhiều ngành thuộc khối Khoa học xã hội và nhân văn mới đây đã "Bị" nhiều trường đại học từ chối khiến dự luận xã hội đi từ lo lắng đến bất an.