Nhà vẫn đơn côi bên bờ sông. Gió về mở hội từng đêm. Đom đóm về thắp đèn. Ánh sáng lập lòe dọi qua cánh màn mỏng ngả màu vàng như quả dưa gang. Mẹ Thành ngồi đó trông ra, chiếc quạt để đầu giường. Bà lấy tay xua xua những con muỗi.
Thằng Đắc đã viết gì về chưa con? Chưa mẹ ạ, có gì con sẽ báo. Mà mẹ cũng đừng nghĩ ngợi nữa, tuổi này ta sống thế này có phải vui không?
Sau tiếng vui, Thành huýt một đoạn sáo cất lên những ca từ dí dỏm trong một bài hát, tiếng sáo đi xa tận ngõ, nghe được cả tiếng cá đớp ở con lạch cạnh bờ sân chạy vào. Mẹ Thành thở mạnh một cái, nó buồn hay vui bà đâu biết.
Minh họa Phạm Hà Hải |
Sau tiếng sáo vui, Thành ngồi lại cạnh gốc dừa tỏa bóng xuống dòng mương, lá nó xanh và dài, thân tròn và mập. Thành nhớ tóc Diệp cũng dài và xanh thế, Thành nhớ người Diệp cũng tròn và mập thế. Thành đã ôm, đã hít hà mùi tóc, đã lần qua làn áo để biết được hình dáng trái dừa non cong vênh đầy kiêu hãnh xuân thì đời dừa. Khi từng dòng sữa trắng chảy ra ở rốn dừa non, mẹ Thành vẫn thường hái xuống, chặt vô, để chàng được thỏa thuê uống.
Diệp có mùi thơm của dừa non, cả người Diệp toát ra mùi thơm dừa non háo hức lắm.
Tiếng con cá quẫy vào đám lục bình tành tạch, một đụn dừa nước nào được đùn tới, từng đám lá khô chạy dọc trên những con sóng nhỏ xô vỗ vào bờ. Âm thanh đó gợi nhắc Thành đến tiếng sóng biển đánh oàm oạp ngoài khơi xa. Tiếng con tu hú cất lên vài đường lảnh lót. Thành nghĩ đó là tiếng còi tàu. Tim Thành thắt lên những nhịp nấc, môi Thành tím lại ở cái đoạn có tiếng ca vui thoát ra ngoài bằng tiếng sáo: Này này cô em, ta yêu cuộc sống, em biết chăng em, hãy về cùng ta, chung xây cuộc đời…
Mẹ Thành bảo, làm gì mà có nhiều khúc ca vui thế con. Bởi cả đời bà buồn, nên tiếng đàn của bà thường buồn lắm, cất lên những khúc thê lương ảo não, dội vào từng khúc sông mùa bão lũ. Bà dạy đàn cho Thành từ nhỏ. Lạ thay tiếng đàn cũng buồn, chưa khi nào vui cả: Chàng đi thiếp vẫn ở đây, bờ sông chẳng gió người hay chớ người… Nên bà chẳng tin có một tiếng ca vui trong tiếng sáo thằng con trai đã kịp lớn nhiều năm mà chưa bao giờ nghĩ chuyện hỏi vợ.
Thành ngồi và nhớ lại bàn tay mẹ đan trên những phím đàn nhỏ máu khi dạy con cách cầm phím và bấm dây ngày Thành chỉ vài tuổi. Khi đánh lên những khúc ca hình như người ta mong đời mình được cất cánh. Rồi bà dạy Thành hát. Chỉ có vẽ tranh là Thành học được từ ngày học văn khoa, Thành hay lân la chơi với những anh chàng học trường mỹ thuật. Họ dạy Thành cách pha màu, cầm cọ, cách làm cho một đôi mắt rũ buồn hay sắc lên ma quái và ám ảnh. Thành đã vẽ đời sống bằng tất cả sự ma quái và ám ảnh đó. Khi bữa trước, mẹ Thành dặn, phòng tranh của con mục lên vì nước rồi đấy, đem hết chúng ra hong đi. Công việc đó bà vẫn làm thay con. Chọn ngày nắng ráo, phơi cho cả nỗi buồn hay niềm hy vọng, thì niềm vui đó đâu phải chỉ của bà, khi những bức tranh đó phải nhờ đến họa sĩ châu Âu thẩm định. Trường phái tranh con bà khác biệt, hay tư duy anh khác biệt, hoặc là mỹ cảm nghệ thuật đó vốn có gen di truyền từ thời nào ở xứ sở bên kia mà bà quên hỏi chồng, rằng anh thích vẽ không. Sau này bà cứ tiếc là chưa kịp hỏi ông, rằng anh có năng khiếu hội họa không, nhưng bà tin là có, chắc chắn là có, bởi đứa con bà có. Còn đàn ca thì khỏi bàn, ở góc độ nào đó, ông còn hơn bà. Chính ông dạy bà violin và piano, ông dạy bà hát nhạc đồng quê, và những bài hát thịnh hành ở những thập niên đó.
Nhưng Thành chỉ thích nhạc dân gian và những bài hát dân ca. Từ nhỏ Thành thuộc về xứ sở này, những dòng sông, cánh cò, con thuyền, điệu đờn ca tài tử, mấy bài vọng cổ, bài chòi…, nên bà vẫn nghĩ con bà lý ra phải ở một thế giới khác rực rỡ sắc màu và những điều kỳ diệu để tài năng được thăng hoa.
Nghĩ đến đây, Thành lấy cây gậy chọc thẳng xuống dòng nước đẩy cho một bè lục bình trôi ra xa. Mùa nước lên, nước ngập vào gần sân nhà.
Nhà bên sông, đom đóm vào mở hội, chúng bay rập rờn ở rặng râm bụt ngoài cổng, chúng đậu vào mấy bông trang, chúng sà xuống mái lá, rồi chúng vờn quanh chiếc võng Thành nằm. Ngày xưa, Diệp thích ngắm bức tranh đêm đồng quê và đom đóm lắm. Diệp bảo, sau này có đi đâu vẫn muốn đem thứ này theo. Diệp giống anh, con người của đồng quê và những điệu dân ca, khúc cá kho và bè lục bình trôi nổi. Diệp nhìn vào bầu trời đêm hít hà những khí ấm. Diệp bảo, trời đêm có mùi quyến dụ cực kỳ. Rồi nàng nhắm mắt thật chặt để trí tưởng tượng đi xa. Nàng để cho cái mũi tiếp diện với bầu trời rộng nhất. Anh tin Diệp, bởi từ người nàng tỏa ra một mùi thơm ngào ngạt còn hơn cả dừa non, mà anh nghĩ mùi đó do nàng hít trời đêm mà có.
Đắc viết thư về từ mấy năm trước bảo, tao đã tìm khắp nơi mà chưa thấy Thành ạ. Thành đã quen với điều ấy từ lâu, khi mẹ anh vẫn đem những bức ảnh cũ ra hít hà, như Diệp hít trời đêm vậy. Anh bảo mẹ, hãy cất quá khứ đi, để cho nó ngủ yên, còn con đây, mới là hiện tại của mẹ. Mẹ anh hiểu điều đó chứ. Bà vươn cánh tay mình ra quàng vào cánh tay dài quá khổ của con. Mẹ hiểu, cảm ơn con, nơi đây mới là hạnh phúc. Tiếng nói cuối cùng bị chìm lấp đi bởi tiếng con chim chành chạch kêu, như tiếng người ta ta thán về nỗi buồn, sự hy sinh đợi chờ vậy, mà phải đêm về mới dám nói thật. Loài chim này tuyệt nhiên chưa bao giờ kêu ban ngày. Chưa bao giờ Thành thấy nó kêu ban ngày, như bao loài chim khác anh vẫn nghe chỉ đêm về ở khúc sông có ngôi nhà và con ngõ: trói cột cô đi, đêm qua chờ bạn, buồn thì phải nói, cô độc cô độc… Đó là những tiếng kêu chính bà gọi tên cho anh vào những ngày anh còn bé để dễ phân biệt với loài chim khác, nên những âm thanh đó ám ảnh anh nặng nề mấy chục năm chẳng mất. Đắc bảo, điều gì ta nghĩ nhiều từ hồi bé thì sau này vẫn thế. Nên có những lá thư về, cậu ấy hỏi anh, mày có ra chỗ hủm sông, đoạn có cây cầu mà mẹ con con sẻ dạo nọ không, mày có nhìn thấy mẹ con con sẻ một lần nào nữa không. Anh bảo, bao đôi sẻ đồng chết đi rồi lại sinh ra, thì nó vẫn ở đấy sản sinh và tồn tại, mày nghĩ làm gì. Là ở đây cũng có sẻ đồng, nhưng tao muốn hỏi chỗ cũ.
Là cái chỗ anh và nó chui vào ngày tuổi thơ để tìm một ổ chim, thấy con sẻ non nằm thoi thóp chờ mẹ. Đồng xa sắp gặt hết mùa. Từng đoàn người vác dao và gậy đi lùng sẻ trong một chiến dịch tìm và diệt. Anh thấy con nhỏ nằm im thoi thóp, xung quanh vẫn còn dấu tích của mẹ nó mới đây. Cọng rơm tươi, vỏ con châu chấu, mẹ nó rõ ràng vẫn ở đây. Nhưng hôm sau thì nó chết. Mẹ nó có kịp về không? Anh và Đắc không biết. Đó là một bí mật lớn lắm của hai đứa, cũng là bí mật lớn của mẹ con nhà sẻ, mà tận giờ Đắc vẫn muốn hỏi anh, mẹ con nhà sẻ còn đến đó không.
Đắc mất mẹ cũng vào năm đó. Mẹ Đắc đẻ đứa em kế bị hậu sản phải nằm nhà vài tháng. Em Đắc bị bên nhà nội bắt đi. Mẹ Đắc không đi làm được cho hợp tác nên không có công điểm. Một ngày bà nằm còng queo rồi chết. Có người bảo vì bà kiệt sức. Đắc lại nhớ sáng đó bà đã dành nốt cho Đắc bát cơm trộn củ mì cuối cùng vét trong xoong để Đắc đến trường. Người làng vẫn bảo, con mẹ bị hậu sản đến kiệt mòn, bao người bị hậu sản đã chết ở vùng này đó thôi. Thời gian sau không còn ai nhớ đến mẹ Đắc nữa. Chỉ Đắc ghim hình bà ở trong tim cho đến tận bây giờ, qua lời nhắc nhớ mẹ con sẻ đồng ở hủm cát cạnh bờ sông. Thành thấy tim mình nghẹn đi mấy đợt. Anh lắng nghe tiếng quạt từ trong nhà, mẹ anh vẫn còn bên anh, thế chẳng phải là niềm vui sao. Nghĩ vậy, anh rời lạch nước bước vô nhà.
Đêm đã sâu. Bờ sông đom đóm đã về mở hội ở khúc đoạn nào. Hương từ muôn loài cây lá mới tỏa ra ngào ngạt. Mùi hoa bưởi trộn cùng mùi trái cau non lẫn mùi thum thủm của bùn đen, mùi ngai ngái của vạt cỏ dại, và mùi dịu dịu, ngầy ngậy của những quả dừa non kiêu hãnh trên cao.
Mẹ Thành đã thôi ngừng quạt, bà đã đi vào giấc ngủ của mình. Đêm đem theo biết bao hồi ức, anh biết, nên anh muốn xóa tan hồi ức đó để đẩy mẹ về với hiện tại, bằng cách hát lên những khúc ca vui, thổi một điệu sáo lòng nhảy nhót, hay gợi cho bà biết, cánh đồng bắp kia, mấy sào lúa và đầm cá tôm, và phòng tranh, cùng cây đàn, mảnh vườn trồng mận đỏ, và những trái ớt, luống rau… chẳng phải cho mẹ con bà một cuộc sống thật bình yên đó ư.
Ừ thì là bình yên, nhưng sao cấm con người ta tìm kiếm? Giống như Thành, vẫn nghĩ về mái tóc của Diệp, nghĩ về đôi mắt và mùi dừa non từ nàng. Đời sống đâu chỉ cần hiện tại. Người đàn ông anh thấy trăm lần trong những bức ảnh của mẹ anh và ông hồi trẻ, như một minh chứng đầy kiêu hãnh về tình yêu, hoặc tháng ngày thanh xuân rực rỡ của tài hoa và sự thu hút nhau.
Phải, bà đẹp. Bà đẹp nổi tiếng vùng căn cứ quân sự đó. Mắt bà trong như mắt con bồ câu, da bà bánh mật ánh lên như màu đường mía, ngực bà tròn. Thành vẫn nhớ cảm giác được chui mình vào quả bầu tròn ấm áp và rắn đanh đó ngày xưa. Ngày xưa bà đẹp ai cũng biết. Bà đã chuyển đến vùng đất này để tránh soi mói chuyện bà đẹp hay nhiều chuyện khác nữa, anh không biết. Đó là ngày anh lên lớp bốn. Anh nghĩ bà và anh đã phải đi một chuyến xe dài lắm. Anh không còn nhiều ký ức về chuyến chuyển dời vĩ đại đó của hai mẹ con, khi ông ngoại anh đã chết, cậu, dì cũng chết hết trong nhiều trận bom, còn anh thì ngủ say quá trong chuyến xe đò những năm đầu giải phóng, nên không nhớ. Và vì sao bao vùng đất mà bà lại chọn ở đây, thì anh không biết, và cũng không bao giờ muốn lý giải. Chỉ niềm vui với Đắc và Diệp là bất tận, nó đã choán hết ý nghĩ muốn tò mò của một đứa trẻ lên mười. Cũng chưa bao giờ bà kể câu chuyện quá khứ của bà. Chỉ là những bức ảnh, chúng cũng chỉ thuộc về thế giới của bà và anh, sau này có thêm Đắc, khi anh đã nhờ Đắc, người đã đi một chuyến thật dài, hỏi hộ anh, nhưng cũng chưa ai biết, chưa ai thấy, hay chưa ai công nhận. Anh cũng quên rồi, quên mình bao tuổi, quên đời mình đã trải qua những biến cố gì, chỉ biết năm mười bảy tuổi, anh vào đại học văn khoa học thiên về văn học dân tộc, rồi anh vào một ban nhạc của trường chuyên hát những bài dân ca. Cuộc đời anh chỉ gắn với dân tộc. Và trở về quê hương ăn cá kho, mắm ruốc, nộm cá mòi do chính tay mẹ anh nấu từ những sản vật ở đồng đất và dòng sông quê anh. Không có gì bảo anh không dân tộc. Nhưng khi ra trường anh vẫn không được dạy hợp đồng ở bất cứ trường học nào. Ông hiệu trưởng bảo anh, thầy thông cảm, thầy có sức khỏe và kiến thức, tôi biết, nhưng thời buổi này chỉ sức khỏe và kiến thức thôi e chừng chưa đủ. Phải chăng ông ấy muốn nói, tôi cần mọi thứ thật dân tộc, tôi không thấy thầy dân tộc, thậm chí, tôi không biết thầy học văn học dân tộc tôi như thế nào, hoặc nói tiếng Việt ra sao… Dù anh có khẳng định, anh chỉ thích cá kho và mắm ruốc, anh chưa bao giờ được nếm vị của chiếc bánh pizza, nhưng không ai tin, họ cần một chứng chỉ cho một sự ổn định hay an toàn, mà hình thức là thứ an toàn nhất, mà tay anh thì mọc lông, mũi anh dường như dài quá, da anh chẳng sậm lại như mẹ anh, độ cao lại trội hẳn. Khỏe mạnh thôi thì chưa đủ thật. Có lúc anh trách mẹ sao chẳng khéo nặn anh giống bà. Dường như không hiểu được suy nghĩ đó, mẹ lại hay nhìn anh đăm đăm, khi anh thức, lúc anh ngủ, lúc anh ngồi đọc sách và đánh đàn, như tìm cho mình quá khứ, như sống cùng ảo ảnh, hoặc viễn tưởng mình đang sống cùng người xưa. Vì anh quá giống bố anh. Những bức ảnh là minh chứng rõ nhất. Chỉ có điều anh mỏng người còn ông thì đậm quá, anh lêu đêu, ông thì chắc nịch và vững chãi. Vì anh không được ăn uống đủ đầy? Anh lại lý giải, vì anh mang một phần dòng máu mẹ. Suy nghĩ ấy cho anh được về gần hơn với dân tộc.
Ngày Diệp nhìn anh lần đầu, cô đã khóc. Rồi Đắc, rồi cả trường nhìn anh như một loài vật khác giống loài. Chỉ có thầy Kha, từ vùng trong chuyển ra. Thầy có nhiều bạn bè ngoại quốc làm việc cùng ngôi trường nội trú ở Sài Gòn. Thầy lôi anh vào mọi hoạt động tập thể. Những hoạt động đòi hỏi sự đặc biệt của trí tuệ và năng khiếu, hay sự dẻo dai và xuất sắc, ít người có được như anh. Thầy đã nhận ra được tiếng đàn của anh, giọng hát, khả năng đóng kịch và diễn xuất, bài văn xuất chúng… Anh là niềm tự hào của tất cả học sinh và giáo viên trong trường. Chỉ có điều anh chưa bao giờ được đi thi học sinh giỏi. Anh không phải là con chim bay được xa dù hót có hay thế nào. Diệp đã mê anh. Đắc coi anh là một chiến hữu. Bộ ba như chiếc kiềng vững chắc. Đó, tuổi thơ.
Tiếng ếch kêu ở một đoạn ruộng khô đưa vào làm anh nhớ, những nỗi nhớ cứ lang mang như thế chẳng khi nào chịu dứt. Phòng tranh của anh ngày càng đầy lên. Sau những ngày mưa ẩm ướt mẹ anh là người hăng hái mang hong cho anh. Anh biết ơn mẹ vì điều đó. Một người Tây du lịch qua khúc sông này, ghé bến bờ này, lên ngôi nhà của anh, trầm trồ trước những bức tranh. Ông đã hỏi mua vài bức và hứa sẽ giới thiệu thêm cho bạn bè. Hôm đó Thành đã tặng ông thêm một bức sau khi ngồi đàm đạo với ông cả buổi về các trường phái tranh trên thế giới từ cổ điển đến hiện đại bằng tiếng Mỹ - anh học được từ mẹ anh, và có thể từ tổ tiên anh, tiếng vọng hằng đêm về. Ông đã rất thích thú hỏi anh, anh học ở trường hội họa danh tiếng nào. Anh bảo, tôi không học hội họa, tôi chỉ có những người bạn mỹ thuật, họ dạy tôi vẽ tranh. Ông đã ồ lên đầy ngạc nhiên. Còn mẹ anh thì vui lắm, như hội mở trong cuống họng, bà rên lên những âm thanh bằng vốn tiếng Mỹ đã lâu lắm rồi bà không được sử dụng. Và bà chờ ông trở lại. Nhưng ông đã không về.
Điều này anh đã biết nên không buồn như bà. Là bà còn chờ hơn một điều như thế - tin tức từ người chồng xưa, bà đã gói trọn cả niềm tin, dòng địa chỉ và bức ảnh… Nhưng rồi không một hồi âm. Anh tin có thể ông đã mất đột ngột. Người già thường mất bất thường. Nên anh không buồn. Bởi trong rương của bà còn rất nhiều bức ảnh đã được chụp lại hoặc nhân bản. Có cả ảnh anh hồi nhỏ. Để tìm một manh mối phía bên kia đại dương, mà giờ đây bà trông chờ hết vào Đắc.
Nó không hồi âm à con? Chưa thấy mẹ ạ. Thành thường nói dối bà như vậy, cũng như một sự an ủi mình để có niềm hy vọng mà chờ tiếp, như tiếng con chim “phía trước” thường kêu “tin tiếp, tin tiếp”. Anh đặt tên như vậy, vì tiếng kêu đặc biệt chăng, hoặc tự đặt cho lòng mình như thế. Nên anh thường an ủi bà, mẹ phải bình tĩnh. Và bà vẫn bình tĩnh cùng anh đây. Và đợi tiếng chim từng đêm, và nhìn ra rặng cúc tần và hàng râm bụt, nhìn những lá bơ đung đưa trong gió, để lại hỏi những câu xa xôi, chẳng biết ông ấy có còn không.
Tình yêu bà chỉ nằm ở phía đó, phía duy nhất ấy có một người đàn ông tài hoa và lãng mạn, ra đi hứa hẹn trở về mà mất tích. Đời bà từng mất tích bao người đàn ông nhưng có ai khiến bà đau như thế đâu. Như chú Tùng từng dặn, mẹ con em ở đây chờ anh về thu xếp với con mẹ cả rồi sẽ vào đón. Chú không vào nữa, bà cũng không buồn. Rồi những cái vuốt má từng đêm của những người đàn ông, họ đi qua con đường này lên những công trường trên kia hay vùng đào vàng phía núi. Họ dừng ở đây thật lâu, thật lâu hoặc chớp nhoáng, chìm trong màu phấn son và hương liệu của thứ nước hoa rẻ tiền anh vẫn ngửi từng đêm. Tiếng chuột chạy lúc rúc, tiếng cười khúc khích hoặc khùng khục…
Mẹ xin lỗi! Bao giờ buổi sáng ra, những giọt nước mắt vẫn còn đọng đầy trên cặp mi sưng húp. Bà lấy tay vọc sâu vào ngực, lôi ra những đồng tiền lẻ cũ rích, đưa cho anh đi mua kẹo đỏ xanh, như một sự bù đắp, đêm qua bà để anh phải ngủ một mình. Anh không trách bà. Anh đủ hiểu, không ai nhận bà vào hợp tác, bà cũng không biết làm ruộng, chưa từng đi gặt, đi cấy, cũng không biết đi biển. Tay bà để gảy đàn, miệng bà để hát ca, không ai muốn dung nạp bà, thì bà tự đẩy mình về một thế giới khác để tồn tại và mưu sinh. Anh hiểu. Bao người đàn ông đi qua cái chõng ấy nhưng chưa một người nào nằm lại với bà nổi hai đêm, còn nghìn đêm sau bà sống cùng những bức ảnh, những kỷ vật và ánh mắt đăm đắm nhìn vào anh, bởi nó hiện quá khứ, hoặc bà đang trôi vào ảo ảnh của hiện tại và tương lai bên người đàn ông bà yêu cả cuộc đời, người quân nhân bác sĩ Mỹ tài hoa.
Đắc viết thư về hai tháng trước, bảo, Thành ạ, cũng khó. Anh biết khó, nên có hy vọng nhiều đâu. Bảo nó, lo làm việc mà ổn định cuộc sống, có điều kiện thì lấy một cô vợ, chuyện của tao không sao đâu.
Tao chẳng lấy vợ nữa đâu Thành.
Anh biết nó nhớ Diệp. Diệp lại chỉ biết anh. Ngày nó ra đi, chỉ xin anh cho Diệp đưa tiễn. Diệp đến tận ngôi làng bên bờ biển để vẫy tay từ biệt. Nó khóc. Con thuyền chòng chành đi xa, rồi xa mãi. Anh không đi tiễn. Anh muốn nó có kỷ niệm nhỏ nhoi nào đó có thể là cuối cùng với Diệp. Mà cuối cùng thật. Nó không về lần nào nữa. Anh thì cũng chẳng thể đi xa. Mẹ anh mất hết giấy tờ về người đó, khó lấy ai bảo lãnh. Làm một chuyến liều thân như Đắc, anh sợ, cho mẹ anh, và cho cả Diệp. Đắc chỉ có một mình. Tao đi lành ít dữ nhiều, một mình thì sợ cái chi, chết thì trôi xác, sống chắc gì cá nó không xơi, sang đó có điều kiện tao sẽ đón mày. Nhưng nó lênh đênh nơi đó nhiều năm mà chưa ổn định như đã ước. Hay nó chỉ muốn đón Diệp, mà Diệp thì chẳng muốn đi. Diệp cũng chẳng còn muốn bên anh. Nên câu chuyện ở đi dừng lại mãi mãi ở bến sông này.
Con vào ngủ đi. Mẹ anh bảo. Tiếng bà đã khàn đục đi vào gần buổi sáng. Người già ai cũng thế chăng, hay chiếc phổi của họ không chịu được những cơn gió lạnh khi đêm trôi sâu về phía sáng, khi các loài cây rùng rùng thải ra khí độc. Anh dạ một tiếng rồi nằm xuống chiếc giường bên cạnh. Tiếng con chim “phía trước” vẫn kêu “tin tiếp, tin tiếp”. Anh không biết nó còn tin vào điều gì nữa. Loài chim khác người, có ăn là vui, có nước sông để chao mình là sướng, có cá, đó là cả cuộc đời của nó. Anh thì khác, cần cội nguồn cần cả dân tộc, cần máu thịt lại cần cả quê hương, cần ước mơ và những chiếc cánh, cần tinh thần và cả nghệ thuật, sự hiến sinh, tận mình cho đam mê cuộc sống. Và thứ anh cần hơn là Diệp. Diệp đã đi xa lắm, sau cái lần bố nàng cấm nàng hít hà mùi trời đêm nơi vườn nhà anh, cấm nàng đến thăm những bức tranh anh vẽ, cấm nàng trèo dừa cùng mẹ anh để vặt những trái non làm cơm dừa mỗi sáng. Bố Diệp đã tìm cho nàng một bầu trời khác, không nhiều sao và đom đóm, không có mùi thum thủm của bùn đục nơi bến sông, không có tiếng con chim tin tiếp mà là đáng tin, rất đáng tin. Nên Diệp đã đi xa lắm.
Tiếng mẹ hỏi anh, rằng Đắc dạo này ra sao.
Về sáng bao giờ bà cũng không ngủ. Bà có thể lôi đủ thứ chuyện cổ kim ra kể. Con nhớ lão Kim ngày đó chứ? Mẹ đã cất được cả cục tiền to lắm lão mua mẹ qua đêm khi lão trở ra từ rừng vàng. Nhờ thế mẹ đã mua cho con rất nhiều bóng bay và kẹo đỏ, mẹ mua gạo, mua cả thịt, con biết không? Tiếng cười đùng đục của bà lẫn trong cả câu chuyện kể về bố anh, mũi ông ra sao, răng trắng thế nào, bắp tay tròn vo rám đỏ, và việc bà chuyển đến đây một phần vì ông đã chinh chiến ở nơi này, mùi ông ở đây, hơi thở ở đây, trong những cánh thư ông gửi về cho bà.
Đắc hôm qua đã viết thư về. Bố mày đã chết, Thành ạ, vì di chứng hóa học. Mày có hai đứa em, kém mày năm và sáu tuổi, chúng giàu có và thành công, nhưng không đứa nào muốn nhận mày dù mày y nguyên chúng. “Mọi vàng”, chúng đã hét, “không thể, không thể”. Có thể nơi đó đã quá ám ảnh trong câu chuyện bố chúng kể chăng, hoặc chính nơi đó đã cướp đi ký ức của ông, những niềm vui, sự trong sáng và cả thể xác, nên không ai muốn nhắc lại và thừa nhận nữa.
Anh lặng lẽ cất lá thư đi, huýt một tiếng sáo dài vẫn điệu hát quen cũ kỹ và tươi vui: Này này cô em, ta yêu đời sống, em biết chăng em…
Mẹ anh nghe thấy liền bảo, ngày mai, con đưa mẹ ra mộ Diệp, mẹ muốn thắp hương cho nó, hai ngày nữa là đến giỗ nó, con nhớ trèo dừa hái mấy trái non mẹ làm cơm dừa cúng nó nghe...
Anh thấy lòng mình lại nấc lên nhiều nhịp, nghe rõ tiếng sóng biển vỗ vào nhau oàm oạp, tiếng còi tàu hút gió mãi khơi xa…
VN11/2022