Người đeo khẩu súng trường dài, ấn vai ông Giáp bắt ông ngồi, hai đầu gối quỳ xuống đất. Ông Giáp run lẩy bẩy, mặt ông nhợt nhạt như không còn máu. Chị Đụn vai cũng khoác khẩu súng, chị đứng nơi cửa không cho ai ra vào.
Tôi vừa cắp cái cặp bước vào nhà, thì bên nhà ông Giáp người ầm ập đến, loáng một cái họ đã kéo ông ra sân, hai tay ông Giáp bị trói quặt ra sau lưng. Người đeo khẩu súng trường dài, ấn vai ông Giáp bắt ông ngồi, hai đầu gối quỳ xuống đất. Ông Giáp run lẩy bẩy, mặt ông nhợt nhạt như không còn máu. Chị Đụn vai cũng khoác khẩu súng, chị đứng nơi cửa không cho ai ra vào. Anh Vĩnh người chỉ huy giục mọi người nhanh chóng bới tìm. Họ lục tung nhà ông Giáp, những chiếc quần áo rách vất khắp nền nhà, chiếc lưỡi cày ông mua để dành cho vụ cày ải sắp tới, từ tay một người đáp ra, tiếng nó văng trên nền đất nghe âm thanh nặng nề, chứ không giòn như tiếng vỡ cốc chén, bát đĩa, đang vụn tan trên nền đất.
![]() |
Minh họa Thanh Phương |
Tôi đứng nơi cửa sổ vách đất nhìn sang nhà ông Giáp, tôi chẳng hiểu vì sao mà người ta lại trói ông, lục nhà ông như thế. Tôi thương ông như thương bố tôi, bởi hai người vẫn ngồi bên nhau những lúc nông nhàn, ông hay hỏi bố tôi mỗi khi buổi chợ tan, vác chiếc dậm về. “Hôm nay được khá không chú?” Bố tôi nhoẻn miệng cười. “Cũng được bơ gạo cho cháu anh ạ.” Giờ ông Giáp ngồi kia, hai đầu gối chạm đất mà vẫn rung như cây gặp bão, mắt ông lặng đi khi thấy đồ đạc nhà mình bị vất khắp nơi, cái vỡ, cái hỏng. Ông Giáp nhìn vợ đang đứng chết dí góc nhà, dòng nước chảy xuống đôi gò má sần sạm. Tôi thấy dòng nước mắt trên gò má ông cũng đang lăn xuống. Anh Thìn đứng nhìn nhà mình ngây như tượng, đôi mắt như ngỡ ngàng, hờn giận chằm chằm vào chị Đụn, đang bình thản đứng như đứng nơi xa lạ.
Trông thấy tôi ngấp nghé nơi cửa sổ nhìn sang nhà ông Giáp, bố kéo vội tôi vào góc nhà, ông vặn tai tôi đau điếng. Nhưng vết đau tan biến mất khi bố thủ thỉ vào tai tôi. “Từ nay không được sang nhà bác Giáp chơi nữa nghe chưa.” Tiếng bố nghèn nghẹn, mà lại như ấp ẩn cái gì đấy, cộng với những việc đang hiện hữu bên nhà ông, làm tôi sờ sợ không dám hỏi lại.
Một hôm mẹ tôi nói với bố. “Đội cải cách về tịch thu ruộng của địa chủ, chia cho nông dân, không biết nhà mình có được chia không nhỉ.” Bố tôi gắt lên với mẹ. “Chia chia cái gì. Tịch thu của ai chứ của bác Giáp thì nhà mình không lấy, có chia cũng không lấy. Bác ấy cũng cày bừa lăn lộn trên đồng, dành dụm tậu non mẫu ruộng, nhà có bát cơm ăn là hai vợ chồng nai lưng ra mà làm, địa chủ gì bác ấy.” Tôi nghe mà chả hiểu gì. Sao lại lấy ruộng của ông Giáp chia cho người khác? Ông Giáp mà là địa chủ á? Mà sao chị Đụn cũng vác súng đứng canh nhà ông Giáp? Câu hỏi chồng nhau trong đầu trẻ con của tôi.
Bố mẹ chị Đụn mất sớm, họ hàng chả có ai, ông Giáp thương tình mang về nuôi. Ngày còn bé, chị Đụn lê la một mình trên cái sân đất, chả có ai chơi, chả ai dỗ dành, ông bà Giáp còn nai lưng ngoài đồng, với mấy sào ruộng. Nhà đã sáu miệng ăn, giờ thêm chị là bẩy, không nai lưng làm thì có mà chết đói. Chị Đụn chơi rồi ngủ lăn lóc nơi gốc cây mít, lũ kiến đen bâu kín hai lỗ mũi ăn gỉ đọng gần lấp lỗ mũi. Sâm sẩm tối bà Giáp về thấy chị gà gật, bế chị vào, trải chiếu cho chị ngủ.
Ngày chị Đụn lên bảy, chị đã thì thỏm mặt ao, hái ngọn rau muống bò, vặn cây bèo tây non, bóp cho nó nổ tiếng đốp, rồi vất vào cái rổ sề to, mà cả người chị ngồi vào cũng lọt thỏm. Năm mười hai tuổi, chị đã như người lớn, quần quật ngoài đồng, cùng ông bà Giáp, cấy cày gặt hái. Mùa vụ xong ông Giáp cùng bố tôi đánh dậm kéo lưới, chị Đụn mò mẫm con ốc con cua, thêm vào thức ăn cho cả nhà. Chị Đụn vào tuổi mười bẩy thì trở thành cốt cán. Tôi không biết cốt cán làm những gì, chỉ thấy ai cũng kính trọng, và như còn sờ sợ những người ấy nữa. Chả thế mà ông Giáp nuôi chị từ bé, hôm bị trói quỳ trước sân, vẫn một điều thưa bà, hai điều thưa bà với chị Đụn đấy thôi.
*
Ông Đồng về làng sau mấy ngày, khi người ta lục tìm nhà ông Giáp đã xong, dáng ông cao to, da lúc nào cũng như gà chọi, đỏ bầm bầm. Chả biết ông làm gì, hàng ngày ông cứ bước khắp làng, bước như người bước dạo. Đã có người hỏi giấy tờ, ông đưa mảnh giấy cũ, chữ viết đã ố màu, màu đỏ của con dấu cũng đã xin xỉn, họ xem rồi vội vàng trả lại, chả ai dám hỏi thêm gì nữa. Ông Đồng ở làng được mấy ngày rồi lại đi, ông cứ lúc đi lúc về như thế.
Từ hôm nhà ông Giáp bị khám, rồi ông bị dẫn đi, tôi không thấy chị Đụn ở nhà ông Giáp nữa, người làng thấy chị ở ngôi nhà ông Bang. Cả nhà ông Bang gần chục người, dọn xuống gian nhà ngang hẹp vanh vanh, để lại ngôi nhà gỗ năm gian rộng mênh mông cho một mình chị Đụn. Chị giờ cũng không còn mang tên Đụn. Cái tên Đụn ai lỡ mồm gọi, phải lấy tay vội bịt ngay mồm lại, và ấp úng sửa. Cái tên một bông hoa ấy là Vĩnh đặt cho chị. “Em xinh đẹp thế này, mà gọi cái tên Đụn, nó mất cái danh cán bộ cốt cán đi, phải có cái tên như bông hoa mới xứng. Lan em tên Lan.”
Chị Lan để con dấu nơi túi áo, hôm nào chị mặc cái áo không có túi, chị giắt nó nơi cạp quần. Ngày còn nhỏ học được mấy chữ a b c của anh Thìn, giờ được Vĩnh dạy cho cách ghép vần, cơ bản là chữ kí, cả đời chưa kí bao giờ, bây giờ ngồi kí, tay chị run run, cái chữ l cộng với chữ a, chữ n kéo dài ra, chữ Lan kí của chị trông như con giun bò trên đám đất lầy ngày mưa ngập nước. Chị kí, khi người ta đưa cho chị kí ở bất cứ chỗ nào trong làng, có lúc chị đang đi trên đường, có khi là chị đang nấu cơm trong bếp. Cái chức chủ tịch của chị chỉ có kí và đóng con dấu đỏ lên, thế là xong trách nhiệm.
Ngày mai làng đấu tố địa chủ. Đêm ấy làng Đông Tự chìm vào màn sương giăng, ai cũng đi nằm thao thức. Làng Đông Tự hồi hộp mong một đêm dài ra, dài mãi, họ sợ sáng mai thức dậy, phải ra đấu tố. Mà đấu tố người như ông Giáp thì cả làng chả ai muốn đấu. Từ lâu rồi, người làng Đông Tự đã quen ngủ sớm, những hôm họp các hội, các đoàn thể thì làng còn thức đến chín giờ, còn không, ăn bữa tối xong là lên giường. Họ sợ như ông Bá nhập nhoạng tối đi ra bờ giếng, gặp mấy người du kích, thế là bị trói giải về sân đình, họ nghi ông ấy là phản động, ra giếng bỏ thuốc độc hại dân làng.
Đêm ấy, trong căn nhà ông Bang, Chị Lan cũng khó ngủ. Tháng sáu trời oi nồng, ngôi nhà năm gian rộng mênh mông, mà chị thấy bức bối. Ngày mai chị sẽ đối mặt với ông Giáp. Kể từ hôm ông bị dẫn ra khỏi nhà, chị chưa gặp lại ông, những hôm đoàn vào tra hỏi, chị tránh không vào. Chị trằn trọc vì Vĩnh bảo chị phải tố những điều mà ông Giáp làm. Ừ thì chị khổ sở để có được miếng ăn, nhưng mà ông Giáp cũng có sướng gì đâu. Còn cái chuyện… Chị thấy ngại. Nhưng Vĩnh bảo. “Đấy là hắn định hiếp em, có thế nó mới bắt em cởi quần chứ.” Chị nhớ hôm ấy mùa mưa ngâu tháng bảy, hai bác cháu lội xuống con ngòi, nước sâu đến bụng, vớt rau tóc tiên cho con lợn sề vừa đẻ. Một con đỉa bằng ngón tay, chui từ ống quần lên tận chỗ bẹn, nó cắn bụng đã no mòng. Chị sờ tay thấy, chị hét lên nhảy vội lên bờ, hai chân giãy, bàn chân giậm giậm xuống đất. Ông Giáp bảo chị cởi quần để ông bắt, chị e ngại mà vẫn phải làm, vì chị không dám tự tay vặt con đỉa ra, khi miệng nó bấu chặt như gắn keo vào da thịt chị. Năm ấy chị mười một tuổi.
*
Chị Lan trằn trọc trong cái đêm oi nồng ấy, chị lăn vào rồi lại lăn ra, cái giường rẻ quạt mét rưỡi của nhà ông Bang. Đêm đã chìm vào khoảng trời đầy sao, chị Lan vừa quay mặt vào trong bức vách tìm bóng tối cho giấc ngủ, thì có tiếng kẹt cửa. Không để chị sợ, người vào nhà cất tiếng. “Em cũng không ngủ được à, lo cho hắn sao?” Chị không lo, mà chị áy náy, có cái gì trong lòng chị day dứt. Chị nghĩ tới những ngày rét cắt thịt da, ông Giáp vẫn bước theo con trâu gầy, lật xá cày trên cánh đồng gốc rạ đang cỗi cằn lại. Chị nhớ ngày nắng như đốt lửa, ông Giáp vẫn một mình khoác chiếc áo tơi lá, theo con trâu bừa cánh ruộng đồng Chằm. Ngày ba tháng tám, hôm nào không đi làm, ông Giáp tự cắt bớt khẩu phần cơm của mình, đi làm thì ăn no, không đi làm thì ăn bớt đi một bát, phương châm của ông là như thế. Ruộng đồng tự ông cày cấy, lúa chín ông tự gặt, nào có bóc lột ai.
Vĩnh ngồi xuống mép giường, giọng anh ta như nhà thông thái, truyền bá vào lòng người những điều như kinh sử, mà con tin chỉ biết quy phục và làm. Không hiểu sao, chị Lan tin lời Vĩnh nói đến thế, mỗi lời anh ta nói chị khắc ghi, chị lại dẹp bỏ những điều còn lấn cấn, lại tin và làm theo ý Vĩnh, rằng ông Giáp bóc lột chị, chị lăn lộn suốt ngày ngoài đồng để con ông ấy được học hành, được chơi ở nhà cùng bố mẹ. Chị làm để nuôi cả nhà ông Giáp, ai cũng béo trắng ra.
Vĩnh vừa truyền bá vừa cầm bàn tay chị Lan. Bàn tay Vĩnh vuốt ve những ngón tay giờ mỗi ngày mịn màng, vì lâu rồi chị không phải cắm cúi với cây lúa ngoài đồng, không còn phải vớt bèo nấu cám. Từ hôm giải ông Giáp nhốt vào cái nhà chè sau đình, Vĩnh càng ngày càng áp sát cơ thể vào người chị, mỗi khi đi ngang qua chị, Vĩnh cũng cọ bờ vai vào nơi ngực chị, dù lối đi còn rộng, đến hai người đi nữa cũng thừa. Cũng đã có lần bàn tay Vĩnh thô bạo úp năm ngón tay vào nơi ngực chị, năm ngón tay xòe ra như cái nơm chụp xuống. Chị không biết kháng cự, vì Vĩnh đang là người chị tin tưởng nhất, chị cũng không muốn kháng cự, vì cơ thể mởn mơ của cô gái vừa bước vào tuổi mười tám, nó cũng đang muốn chà xát, chị ngước đôi mắt lúng liếng nhìn Vĩnh, miệng nở nụ cười, nụ cười làm khuôn mặt chị ngây ngây.
Vĩnh ngồi, giờ thì anh ta không giảng giải về người nông dân phải đấu tranh với giai cấp địa chủ bóc lột, mà anh ta đang gieo mầm ước mơ cho chị, những ước mơ thiên thần. Rằng xong nhiệm vụ đánh đổ địa chủ ở đây, Vĩnh sẽ đưa chị về quê ra mắt bố mẹ, rồi một đám cưới đời sống mới được tổ chức, trong chén trà, điếu thuốc, rồi chị sẽ sinh những đứa con như công chúa, như hoàng tử.
Chị Lan càng nghe càng đê mê với viễn cảnh mà Vĩnh đặt trước mặt mình, người chị rừng rực như lò than bốc lửa. Từ ngày Vĩnh về, cuộc đời chị đã sang trang, một trang trắng tinh khôi, một ước mơ, một niềm tin như cái đinh chắc, đóng vào cột lim. Chị hạnh phúc, hạnh phúc nhỏ đến hạnh phúc lớn. Nhỏ như cái tên, chị hãnh diện với cái tên màu trắng trong suốt, thơm ngát khoảng không gian đất quê. Từ người nai lưng trên đồng, giờ là bà chủ tịch, con dấu kè kè bên người. ai đến xin chữ kí, cũng một điều dạ thưa, hay ít nhất cũng báo cáo đồng chí. Hỏi sao chị không tin Vĩnh cơ chứ. Cái viễn cảnh thần tiên mà Vĩnh trải trên đám mây xanh, bay bay trong con mắt trong veo. Ngọn lửa không thể kiềm chế, nó đang bùng cháy, khi gió về thổi bật nó lên, chị quàng hai tay qua bờ vai, kéo Vĩnh nằm xuống bên mình.
Vĩnh bình thản đến kì lạ, anh ta không vồ lấy con mồi nuốt chửng, mà điềm đạm thực hiện kịch bản, cái kịch bản anh ta đã diễn mấy lần trên sân khấu, càng diễn càng đạt. Cô gái quê dậy thì, nghèo kiết xác, được anh ta ban cho sự đổi đời, nó như một giấc mơ sau một đêm ngủ dậy, hỏi cô nào chả mang ơn. Tấm thân xuân xanh tắm bùn thành nõn nà, sao không bủn rủn khi anh ta cọ xát vào người. Vĩnh chiếm đoạt cơ thể cô nông dân săn chắc, săn chắc như nắm cơm nấu bằng thứ gạo dẻo, gạo thơm, càng nắm, càng săn chắc mịn màng.
*
Ban giám đốc phân công tôi lên tặng hoa, cho một lãnh đạo, khi ông nói chuyện xong. Một công việc nhẹ nhàng, nhưng là khó với tôi, vì sơ xuất một tí thôi sẽ ảnh hưởng đến cơ quan. Tôi cuộn một cuộn giấy báo, diễn tập một mình trong phòng suốt đêm hôm trước. Ông trưởng ban tổ chức giới thiệu. “Xin trân trọng kính mời đồng chí Nguyễn Đồng, bí thư tỉnh ủy phát biểu.” Một người bước ra từ cánh gà. Bác Đồng. Tôi ngây người nhìn ông, miên man suy nghĩ, chả biết ông nói những gì. Ngày ấy sau khi hoàn thành công cuộc cải cách, ruộng đã chia cho nông dân, làng quê lại yên bình, mọi người lại cày lại cấy. Ông Đồng cũng không còn ở làng nữa, nào ai biết ông Đồng là bí thư tỉnh ủy. Tiếng vỗ tay vang hội trường, tôi sực tỉnh, nhớ đến nhiệm vụ của mình. Tôi vội bước lên, thì ông đã khuất vào cánh gà, tôi nhào lối cửa cạnh ra sau hội trường, ông đã lên xe. Tôi ào tới cửa xe, chiếc xe vừa lăn bánh khựng lại, cửa xe bật mở, ông bước xuống, hai tay dang ra, tôi nhào vào áp mặt mình vào ngực ông. Ông vòng tay đập đập vào lưng tôi. Hai tay ông lại đặt vào bờ vai tôi, ông lắc vai tôi rung rung. “Nguyệt làm ở cơ quan này à?” Tiếng ông hỏi làm tôi giật mình, ngày ông ở làng, tôi còn là cô bé thiếu nhi, hai bác cháu gặp nhau có vài lần, khi tôi sinh hoạt ông đến vui cùng bọn trẻ con.
Có một lần ông vào nhà tôi, ông vẫn thế lang thang khắp làng, rồi la cà nhà này nhà kia. Ông đến ngồi chơi, chả có chuyện gì ông nói ra đầu ra cuối, loanh quanh vẫn chỉ chuyện cấy cày, chuyện bữa ăn mỗi ngày một thiếu thốn, rồi ông sẻ chia. “Nhanh chóng trồng rau ngắn vụ bác ạ, rau có thể thay cơm trong lúc đói kém được đấy.” Ông nói mà thấy mắt ông nhàu nhĩ, đôi mắt ấy không hợp với khuôn mặt ửng đỏ của ông.
*
Sau cái đêm nóng nực ở ngôi nhà năm gian của nhà ông Bang. Từ hôm ấy, nơi đấy như tổ ấm của Vĩnh, anh ta ăn cùng chị và ngủ lại. Chị Lan cũng mong như thế, bản thân chị cũng chả muốn rời Vĩnh, còn người làng thì chỉ biết ngậm tăm, chả ai dám xì xèo, những chuyện khác còn ghé tai nhau thì thầm, chuyện này thì câm bặt. Chị Lan càng ngày càng đẫy đà. Trước đây, do chị phơi nắng trên đồng cả ngày, mà chị cũng chả biết giữ gìn, cứ để nắng thiêu nắng đốt, chứ thực ra thì chị Lan rất trắng. Bây giờ không phải phơi nắng trên đồng, chị Lan hiện diện đúng nguyên mẫu của mình, đẹp rực rỡ. Những ngày gần đây tự nhiên chị cứ thấy mặt nóng bừng bừng, có lúc hiện lên nụ cười tủm tỉm, đôi môi giờ như hai quả ớt chín căng mọng, có lúc chị lại thấy người bứt rứt, cồn cào mong mỏi. Chị chưa bao giờ nghe thấy câu Gái phải hơi giai...
Đám cưới của chị Lan và anh Ken làm cả làng ngỡ ngàng, chị Lan xinh đẹp, lại đang là chủ tịch, sao phải lấy anh Ken dở người kia chứ. Ngày cưới mặt chị có xoa thêm chút phấn, môi chị có tô thêm chút son, những thứ mà tự tay Vĩnh thu được, của những cô gái trên thị xã mang về cho chị, trông chị rực rỡ như nắng buổi sớm bình minh. Bên chị anh Ken bộ quần áo gụ bạc màu, đôi chân đất bước thậm thạch, cái dáng bước như người hầu theo bà chủ. Anh Ken mất bố mẹ từ lâu, một mình mò máy con cua, con ốc được gì ăn nấy. Chả bao giờ nhà anh có gạo nấu cơm, hôm nào không đi mò được thì anh đi kiếm rau mọc hoang làm bữa. Anh dở người, chứ chưa đến nỗi điên dại. Hôm Vĩnh vào bảo anh lấy chị Lan, anh nhảy lên hò reo như người vớ được vàng, đời anh chưa bao giờ dám nghĩ mình sẽ lấy vợ, mà lại lấy được chị Lan.
Đêm tân hôn, Ken được Vĩnh vất cho chiếc chăn chiên cũ, anh nằm một mình trên cái vạt giường đơn, trải trên một lớp rơm cuối mùa, hôi rình. Trong căn buồng tối, tự tay Vĩnh đã khép cửa lại, tay khép cửa, miệng anh ta nói. “Đắp chăn mà ngủ đi nhé.” Anh chả biết mấy gian nhà ngoài đang diễn ra những gì, chỉ thỉnh thoảng anh nghe thấy tiếng cười của chị Lan, và tiếng thì thào khe khẽ, tiếng rung của chiếc giát giường lỏng đinh kêu ken két. Đã có lần Ken thập thò, ló cái đầu ra ngoài tấm cửa buồng, thì một tiếng quát làm anh giật mình. “Có muốn như thằng Giáp không, mà thập thò hở.” Anh Ken chui thụt đầu vào, như ông Giáp thì người khôn cả làng còn sợ, chứ đừng nói người đần độn như Ken.
*
Ông Đồng trở lại làng Đông Tự, hôm nay ông mặc bộ quần áo gụ đã bạc màu, chân đi đôi dép lốp, ông bước quanh làng, như người đang tìm kiếm cái gì đấy. Con đường dẫn bước chân ông rẽ vào ngôi nhà ông Giáp. Bà Giáp lọm khọm, hai mắt đã mờ, chả nhận ra ai vào nhà mình. Từ ngày ông Giáp không còn, bà Giáp cũng chả ra đồng, con kiếm được cái gì thì ăn nấy, những ngày sống dặt dẹo ấy, bà sống như để cho qua, cho trôi đi, với bà nó chả còn ý nghĩa gì nữa. Ông Đồng với tay lấy nén hương, rút trong túi cái bao diêm, ông châm nén hương, cắm vào cái bát hương lơ thơ mấy cái chân hương. Ông đứng lặng nhìn cái bát hương lạnh lẽo, chắc lâu lắm rồi không có nén hương mới nào cắm vào đấy, ông không khấn, chỉ đứng lặng cúi đầu, rồi vội vã quay ra. Ngoài sân bà Giáp cũng chả biết vị khách làm gì trong nhà mình, chỉ khi mùi hương tỏa ra đến chỗ bà ngồi, bà lầm rầm. “Nhà ai hôm nay lại có giỗ, mùi hương thơm thế.” Ông Đồng bước vội ra khỏi nơi đã ám ảnh ông mấy năm nay.
Ngày ấy ông trở lại làng Đông Tự sau một chuyến công tác dài mấy tháng, thì mọi việc xảy ra ở làng Đông Tự đã rồi, ông chỉ còn biết tự mình kiểm điểm nhận sai sót. Rồi những gì sai đã được sửa. Chiều hôm trước người làng vẫn thấy Vĩnh nhởn nhơ, chiếc xà cột lúc lắc bên sườn, anh ta bước nghênh ngang trên đường, những người gặp anh ta tránh đi đường khác, không còn đường khác để tránh, thì lặng lẽ cúi mặt bước cho nhanh. Vậy mà sáng hôm sau không ai nhìn thấy anh ta đâu nữa. Chị Lan chạy khắp làng, cái bụng chửa phưỡn mặt, cố bước cho nhanh đi tìm, cũng chả thấy bóng dáng anh ta. Ngày chị Lan sắp sinh, chị lần về tận quê Vĩnh tìm, người làng bảo. “Lâu lắm rồi không thấy Vĩnh về, hôm bố anh ta mất cũng có thấy anh ta về đâu, vợ con anh ta đang ngồi đợi kia kìa.” Chị giật mình nghe hai tiếng “vợ con anh ta” bụng chị tự nhiên cồn lên đau rát, chị ôm cái bụng thui thủi quay lại làng mình.
*
Tôi về quê sau bao năm xa, từ ngày bố mẹ tôi mất, tôi ít khi về làng, một phần vì anh em tôi không còn ai ở làng, mỗi người công tác một nơi, công việc ở đâu thì sinh sống ở đấy, phần vì lấn bấn con cái nên cũng lười. Năm nay anh em tôi hẹn nhau, tất cả về quê, về làm giỗ cho bố, về anh em bàn nhau sửa sang lại ngôi nhà cũ, làm nơi thờ cúng ông bà, bố mẹ. Vất chiếc túi xuống ghế, tôi nhào ra cầu ao, chiếc cầu ao bố tôi bắc bằng tấm gỗ bản to bám đầy rêu, vì lâu rồi không có ai đặt bàn chân lên đấy. Tôi bước lên, khẽ khàng lấy nắm rơm kì cọ, chả mấy mà nó đã nhẵn bóng. Tôi ngồi thả hai chân xuống mặt nước khua khua, mặt nước sóng sánh hòa vào nhau, vỗ vào bờ, nơi cây khế buông rễ non trắng bệt một mảng, bám chằng chịt níu lấy đám đất bờ ao không cho lở.
Ngồi trên cầu ao, tôi nhìn sang đất nhà ông Giáp, ở đấy bây giờ là ngôi nhà xây, chứ không còn ngôi nhà gỗ nữa. Ánh nắng xế chiều ngả vào bóng một người đang bước về phía tôi. Chị Đụn. Tôi cất tiếng, chị bước xuống ngồi bên tôi, bàn tay vớt lên dòng nước. Ở cái tuổi đã sắp bốn mươi chị Đụn vẫn ngọt ngào, đôi mắt đen trong như hạt nhãn, hàng mi cong uốn viền. Trông chị đẹp dịu dàng. Từ lâu rồi người làng lại gọi chị bằng cái tên ngày xưa, họ không gọi tên mà Vĩnh đặt, người làng gọi chị tên cũ, để chị trở về với lại chính mình.
Ngày chị đi tìm Vĩnh không thấy, trở về ngôi nhà ông Bang, thì anh Ken cũng đã không còn ở đấy, anh Ken cho là chị đã bỏ đi theo Vĩnh. Với lại Ken chỉ đần đần chứ Ken có điên dại đâu mà Ken không biết hai người làm gì, những đêm tiếng vạt giường kêu, tiếng cười của chị ré lên. Đã có lần Ken mon men ra đứng dưới chân giường nhìn chị Đụn nằm, hai tay dang ra, cái cổ áo trái tim không đóng cúc, khoe bầu ngực căng tròn trắng nõn, hai chân cũng giạng ra, cái quần vải phíp mỏng tang, làm đôi mắt Ken không chớp. Ken đứng nhìn, tiếng nước bọt trôi từ miệng xuống họng nghe đánh ực rất to, tiếng ực làm chị Đụn choàng thức, nhìn thấy Ken đứng bên mình, chị la lên, Ken ù té chạy vào buồng, cánh cửa buồng khép lại. Ken sợ lại như ông Giáp.
Nhà ông Giáp có anh Thìn kém chị Đụn một tuổi, trong mấy người con ông Giáp chả ai chơi với Đụn, chỉ có Thìn là cùng chị chơi những trò chu chít trốn tìm. Năm chị Đụn trở thành thiếu nữ, mơn mởn cánh hoa, anh Thìn cũng thành chàng trai ngổng nghểnh. Ngày ấy, Ông Giáp đã biết Thìn thích Đụn, mấy lần ông bắt gặp Thìn nhìn Đụn chằm chằm. Đã có lần ông Giáp bảo. “Lớn lên chút nữa, tao cho hai đứa lấy nhau. Nó ở nhà mình cũng không phải con cháu, lấy được. Nó giỏi giang, quạnh quẽ, có nó nhẹ việc nhà đấy.” Câu ông Giáp bảo làm anh Thìn mong đợi. Đời ai học chữ ngờ. Vĩnh về làng, cả làng đảo lộn, đến cảnh làng còn thay đổi huống chi là người. Anh Thìn đau buồn khi Đụn vác súng về nhà bắt ông Giáp, khi Đụn tố ông Giáp bóc lột, hiếp dâm. Chỉ có điều Thìn không tin những lời ấy là từ lòng Đụn, mà Thìn tin có người mồi cho Đụn nói. Thìn vẫn tin vào lòng chân thật của chị.
Hôm chị Đụn thẫn thờ một mình trên đường về làng, đang bước trên đường thì chị chuyển dạ, gặp Thìn, anh đưa chị ra trạm xá. Số đứa trẻ không ở với mẹ nó, chị Đụn đau buồn. Ngày chị Đụn ở trạm xá về, anh Thìn đưa chị về nhà mình. Bà Giáp tru tréo lên. “Mày đưa con vô ơn về đây à, tao sẽ băm vằm nó.” Bà nói và chạy vào bếp, lấy con dao mà ngày nào chị vẫn cầm băm bèo. Anh Thìn đứng chắn cho chị, anh ôm chặt mẹ, gỡ tay bà, con dao được cất vào góc chạn.
Từ ngày ông Giáp mất, ba người con ông không ai về làng, họ căm ghét mảnh đất bạc bẽo ấy, nhà chỉ còn mỗi anh Thìn không bỏ đi đâu, anh ở lại bên mẹ, anh không thể bỏ được bà ngày càng lọm khọm, mắt mỗi ngày mờ đi, anh không thể bỏ được Đụn, kí ức tuổi thơ, những đêm chơi trốn tìm cứ đánh thức con tim tuổi hai mươi của anh. Anh lần mò trong đêm đến nhà ông Bang. Làng Đông Tự này, đi từ đầu làng đến cuối làng, anh đâu cần phải đi đường cái, anh luồn qua bụi râm bụt, bụi cúc tần, từ nhà này sang nhà kia. Đêm nhàn nhạt ánh trăng suông, con chó thấy tiếng loạt soạt sủa vang, anh Thìn khẽ huýt sáo hoặc chầng chậc lưỡi tiếng nhẹ, con chó xồ đến mừng rỡ. Chó ở làng Đông Tự coi anh như chủ nhà. Tháng mười gặt xong, những con chuột béo tròn, anh nướng cho từng con thưởng thức. Những chú chó thấy mùi thơm nhảy chồm đến. Những đêm anh đến sau nhà ông Bang, tay ôm con vện vuốt ve, mà lòng thì như bị ai bóp nghẹn, mỗi khi tiếng Đụn trong nhà cười lên nưng nức. Buồn bã, anh luồn bụi trở về, cửa nhà anh một người ôm khẩu súng gà gật. Thìn biết không thể vào nhà khi du kích đã canh gác, anh luồn ra cổng, men theo bờ ruộng ra đống nằm chờ sáng.
*
Từ hôm anh Thìn cất con dao vào cái chạn, chiều ấy bà Giáp được ăn bữa cơm dẻo canh ngọt từ tay chị Đụn nấu, rồi những ngày sau đấy, việc nhà việc đồng, lại một tay chị lo toan. Bà Giáp dần quên đi nỗi ám ảnh về một con người bội phản. Rồi hai đứa con của anh chị ríu rít bên bà, chúng chào bà buổi sáng cắp cái cặp đến trường, chúng nhào vào lòng bà buổi trưa đi học về, dắt bà ra ngồi vào mâm cơm mà mẹ nó đã nấu. Chúng ríu rít bên bà từ ngày còn líu ríu đôi chân, giờ con chị đã sắp học xong cấp ba, thằng em thì vừa vào cấp ba năm nay. Rồi một ngày thằng con chị Đụn thất thanh. “Mẹ ơi bà làm sao ấy.” Chị Đụn bật dậy chạy về nhà, tôi cũng nhào theo chị. Bà Giáp nằm trên nền nhà, hai tay đang co căng vặn xoắn, miệng bọt phì phì. Chị Đụn bế bà lên giường, tiếng phì phì phả nước bọt vào mặt chị. Bà Giáp tính đến giờ là người thọ nhất làng, năm nay bà đã ngoại chín mươi, ngày ông Giáp ra đi, không ai nghĩ bà thọ được đến bây giờ. Đã mấy lần bà muốn ra đi, nhưng lại có bàn tay chị Đụn kéo bà lại, bàn tay chăm sóc thuốc thang, túc trực bên bà cả đêm, rồi rửa ráy giặt giũ, không ngại bất cứ việc gì để bà ở lại.
Chị Đụn vuốt đôi mắt bà Giáp khép lại, chị lấy khăn mặt rửa mặt, lau người, bộ quần áo chị may bằng thứ vải lụa Hà Đông cho bà từ lâu, bao lần chị bảo bà mặc đi ăn cỗ trong làng bà không mặc, bà bảo cất đi. “Ngày tao chết thì mặc cho tao.” Khi bà Giáp nằm ngay ngắn gọn gàng, trên chiếc giường vừa thay chiếc chiếu mới, đắp phủ chiếc chăn mỏng, thì tiếng chị Đụn mới cất lên, chị khóc nâng nấc, không bật ra thành tiếng. Anh Thìn như luồng gió ào vào nhà đứng trân trân, nước mắt anh nhỏ xuống.
Trong khói hương bay tỏa, người ta thấy một ông già đến thắp hương. Chị Đụn trên mặt trùm tấm vải xô vẫn nhận ra, ông lặng lẽ cắm nén hương vào bát hương đầy chân hương, trong đầu ông lại hiện về cái bát hương lạnh lẽo ngày nào. Chị Đụn đưa ông ra đến ngõ, chị nắm bàn tay xương xẩu của ông. “Cháu xin lỗi chú về chuyện ngày ấy.” Ông già cầm bàn tay chị bằng hai tay. “Chú mới phải xin lỗi gia đình cháu, lỗi là ở chú chứ không phải ở cháu. Mà thôi, giờ mình hướng về cái mới, ở tương lai của các con cháu, Đụn ạ.”
Tiếng kèn réo rắt vọng khắp làng tiễn biệt một người làng Đông Tự về nơi chín suối...