Dò được tảng đá cao tầm ngang đầu gối ngay bên dưới, gã đạp mạnh chân trái, lấy hết sức bình sinh, ghì sợi dây thừng, hãm đà chiếc bè ba đang trôi phăng phăng về phía ghềnh đá nhô lên khỏi mặt nước, cao quá đầu người. Sợi dây thừng căng đét, từ từ điều hướng chiếc bè đầu tiên chếch dần về tả ngạn, kéo hai chiếc ngay sau nó an toàn thoát khỏi hiểm cảnh. Hai tay gã gần như tê dại, mất cảm giác, mặc dù đã được phòng hộ qua lần vải dày như khố tải. Gã căng mắt cố quan sát tình hình người phụ nữ đang ngụp lặn giữa dòng nước đã vượt quá ngực, ngay trước gã tầm hai con sào, cũng đang căng sức điều hướng chiếc bè hai. Dòng chảy này mà sơ suất để chiếc đầu rúc vào bờ thì coi như đổ sông đổ bể chuyến rừng, gã thầm nhủ.
![]() |
Minh họa Đào Quốc Huy |
Như mọi lần, để dễ lách qua những đoạn suối hẹp, gã đã khôn khéo đóng mỗi bè năm lóng gỗ dài hai mét. Hai lóng bằng lăng cặp hai bên ba lóng gõ đỏ đảm bảo sức nổi của chiếc bè để vượt qua lòng suối cạn. Ba chiếc nối với nhau bằng hai sợi dây thừng song song hai bên, gã chỉ việc lội nước đi sau cùng và điều chỉnh hướng trôi bằng cách ghì hoặc thả hai đầu dây thừng. Nhưng có vẻ như lần này mọi thứ không như gã dự tính. Sức nổi của mấy lóng bằng lăng giữa dòng nước lên nhanh bất thường khiến gã phải căng sức gần như không thở nổi để giữ chiếc bè không trôi mất hút, hoặc đâm sầm vào đám tre gai rậm rạp hai bên bờ suối. Đột nhiên, từ phía thượng nguồn, vang lại tiếng ầm ầm như muốn rung chuyển núi rừng. Gã ngoảnh phắt, hãi hùng hét lớn:
“Bỏ bè! Bỏ bè! Bỏ...”
Tiếng gào thét tuyệt vọng của gã không đuổi kịp dòng nước đã cuốn người phụ nữ cùng chiếc bè hai dạt về phía bên kia hữu ngạn, mất hút sau khúc ngoặt của con suối. Gã hốt hoảng đạp mạnh hai chân, cố bơi đến mỏm đá nhô ra ngay sau những bụi tre um tùm. Vô vọng, những thân gỗ mục theo dòng nước sủi bọt đục ngầu lao nhanh xuống, đánh bật gã ra giữa dòng. Choáng váng, gã bị dòng nước lôi tuột xuống tận đáy đầy sỏi, rồi xô về phía ghềnh. Cố gắng trấn tĩnh, mở hai mắt cay xè, gã đạp mạnh xuống nền sỏi, bật ngoi lên mặt nước. Mái vòm tự nhiên của con suối được tạo thành từ hằng hà sa số bụi tre gai ken dày đặc hai bên bờ vốn dĩ cao đến 4, 5 thước, lúc này lại chỉ còn cách gã chưa đến một tầm tay với. Nếu để dòng nước đẩy vào đám tre gai, chắc chắn sẽ bị bấu chặt lấy, lôi tuột xuống dưới dòng nước dữ. Không còn kịp suy nghĩ, gã huơ tay loạn xạ vào mái vòm, nắm chặt lấy một ngọn tre to bằng cẳng tay người lớn. Mặc đám gai tua tủa cào nát hai bàn tay, gã cố lần xuống đoạn thân lớn hơn, kéo cơ thể khỏi dòng nước đã sắp chạm đến mái vòm. Hình ảnh mấy cái thây thối rữa giữa đám tre gai um tùm khiến gã bất chấp từng mảng da thịt bị cào rách bươm, cởi bỏ tất cả quần áo, quăng mình qua từng bụi tre như con voọc điên cuồng tìm đường thoát khỏi lưu vực con suối. Gã chạy mải miết, cho đến khi tay gã chới với, rồi cả cơ thể tê dại đổ nhào vào khoảng không đen đặc của rừng thẳm.
*
Từ đỉnh Bidoup, đoàn xuôi hướng Đông Nam quá xế thì phát hiện bãi cỏ khá bằng phẳng ngay cạnh con suối cạn nhưng vẫn còn rỉ rả lạch nước nhỏ non gang tay người lớn, nên quyết định dựng trại. Khải liếc nhìn đồng hồ, chưa đến bốn giờ chiều, mà những thân thông ba lá già cỗi, đổ gục, chắn ngang lối đi, đã đẫm sương.
Phóng tầm mắt về phía trước, dưới vạt nắng chiều mỏng manh, trảng rừng thưa lá kim xanh nhạt đương đổ dốc, bị chặn đột ngột ở lưng chừng bởi dải rừng dày kịt, thẫm màu hơn, tạo thành ranh giới tự nhiên từ hướng Đông Bắc xuôi tít tắp về Tây Nam.
“Pơ-mu đó, tới giáp ranh rồi.” Người đàn ông Ra Glai che tay ngang trán, nheo đôi ngươi phủ sương đùng đục quá lục tuần, để lộ những vết hằn ăn sâu vào đuôi mắt trên cái nền da đồng hun nhưng sậm đen. Có lẽ vì những chuyến cắt rừng nhiều tháng trời. Vóc người nhỏ thó chưa đến mét rưỡi, lại gầy như chiếc lá, nhưng vững chãi và chắc nịch. Cái túi vải mấy chục kí lô thực phẩm khô trên lưng mà vượt dốc núi phăng phăng như đất bằng, trong khi Khải chỉ ba lô với mấy bộ quần áo và quyển sổ ghi chép con con lại không còn sức để thở.
“Đến vạt pơ-mu đằng kia còn bao xa hả ama?” Khải ngồi bệt xuống bãi cỏ, trống ngực vẫn dồn dập.
“Con có thấy cái hõm đen đen dưới kia không?” Ông lão chỉ tay về khoảnh rừng tối màu. “Cái vực không quá sâu, nhưng đường khó đi, phải đi vòng tầm hai tiếng thì tới, tuột hai cái dốc mu rùa đó. Một mình ama thì ama cứ cắt vực mà đi thôi, hơn nửa tiếng. Nhưng đoàn nhiều người e chừng không vượt được mấy cái dốc đá dựng đứng dưới đó, lại phải phí công trở ngược.”
Khải đâm ngại, dù anh đã được cảnh báo từ trước rằng để cắt trảng pơ-mu ở đằng xa kia, phải hai tay rựa phát mây gai mở đường, dò dẫm cũng mất hơn nửa ngày, rồi phải mất thêm mấy giờ xuyên rừng hỗn giao mới tìm được nguồn nước để hạ trại. Đó là chưa tính đến thời gian anh em đoàn quan sát, thu thập tư liệu hình ảnh và ghi chép.
Khéo vén lắm cũng đốt mất hai ngày, anh thầm nghĩ, đoạn ngoảnh nhìn mấy tay nhà đài đã lăn ra bãi cỏ tự khi nào. Mớ thiết bị lỉnh kỉnh vác đi, nâng như nâng trứng, giờ vứt lổng chổng, chả bù với lúc tập kết tại trạm kiểm lâm ngay bến phà Nhật Bản bốn ngày trước.
Ông lão buông cái túi, ngồi đánh phịch, như nhìn thấy được những suy nghĩ của Khải:
“Uống nhiều nước nên nhão gối, mồ hôi ra nhiều mau xuống sức lắm, không đi suốt được đâu.”
Thực ra, vấn đề này ai cũng biết và cũng đã được nhắc nhiều lần từ trạm kiểm soát đầu nguồn. Nhưng dù những bụi thanh mai dọc đường đều bị bẻ trụi thì những cái cổ họng khô khốc vẫn thúc giục được đổ liên hồi thứ nước trà pha loãng được chuẩn bị từ sớm mà ai cũng giắt kín thắt lưng như anh lính giắt lựu đạn xông trận. Chưa được nửa chặng đã nhì nhằng xin nước váng cả lên. Cứ như trong người có bao nhiêu nước đều bị vắt kiệt cả, hai lớp áo thì sũng cả hai. Chính Khải cũng đang hau háu nhìn nồi canh bắp cải nấu me chua đang bắt đầu bốc hơi nghi ngút, thần dược trị những cái cổ họng đang háo nước. Đột nhiên, giữa làn khói mờ mịt bốc lên từ những thanh củi thông ẩm, hòa vào màn sương man mác, Khải mơ hồ nhìn thấy bóng người lặng lẽ đứng trên triền dốc, khẽ tựa gốc thông, nhìn xuống đám người đương lao xao bên dưới. Anh chắc rằng, đó là một người đàn ông luống tuổi, bởi cái dáng ra chiều lom khom bó trong chiếc áo trấn thủ đen đúa, quá khổ. Khải vụt bật dậy, nhưng cái bóng đã biến mất, cứ như tan vào sương núi.
“Quái, chả lẽ có ma?” Khải lầm bầm.
“Ông Liên vẹo đấy.” Ông lão trầm ngâm.
“Ông ấy làm gì cái nơi heo hút này, chả lẽ...” Khải ngoảnh nhìn bốn bề sương giăng đầy ma mị.
Ông lão phần nào bắt mạch được những suy nghĩ mông lung của Khải, giọng trách cứ:
“Nếu ông ấy muốn thì hai mươi mấy năm qua cũng đã quá dư giả thì giờ để cạo trọc vạt pơ-mu đằng kia.”
“Ông ấy ở đây ngần ấy năm? Cái nơi chỉ có sương với sương, không điện, không sóng điện thoại, không có cả con người?” Khải trố mắt, như chưa thể tin ngay.
“Ồ, có hề gì. Đó chính là thứ ông ấy cần.”
“Nghĩa là sao ạ?”
“Nghĩa là chờ ngày chết mục như gốc thông già đằng kia.” Ông lão hất hàm về phía cây thông gục trên bãi cỏ, cạnh mấy cái bếp dã chiến đang đỏ lửa.
“Sao lại phải thế ạ?”
“Ô hay, đi mà hỏi. Nhưng mà tốt nhất thì đừng. Ổng kị hơi người.”
“Kị hơi người? Dị nhân chắc?”
“Cái đó thì ama không biết. Nhưng kể từ cái ngày cánh gác rừng phát hiện ổng lai vãng vùng này hai lăm năm trước, chưa từng có ai nghe ổng nói lời nào, mấy lần chạm mặt hiếm hoi cũng lẩn nhanh như gặp mả hủi.”
“Trời!”
Xưa nay, câu chuyện về người rừng không hiếm. Nhưng hết thảy không vì chiến tranh loạn lạc, cũng là tai nạn hoặc sự cố hi hữu nào đó mà rơi vào cái cảnh cách xa đồng loại, tách biệt đời sống văn minh. Nhưng tự mình cắt đứt mọi sợi dây liên hệ với con người, sống đời như cây cỏ, quả là sự lạ. Trông thấy đám người xì xụp bên nồi nước, Khải sực nhớ đến cái cổ họng khô khốc, ì ạch lê bước về bãi trại cạnh con suối cạn.
Bóng người vừa khuất, một bàn tay đen đúa chậm rãi thò ra khỏi bụi mây gai chằng chịt, chộp lấy mảnh gỗ nhỏ nằm chỏng chơ trên bãi cỏ. Dưới nắng chiều nhờ nhợ sương, những ngón tay xương xẩu, lắm lém thứ bùn đỏ đặc quánh, cứ miết vào mảnh gỗ cho đến khi bề mặt nhẵn bóng, dần phát lộ mấy hoa văn hỗn độn, trông như mảnh trăng khuyết soi bóng xuống con suối nhỏ. Đột ngột những ngón tay xù xì ấy co quắp lại, run lên bần bật, kèm theo thứ thanh âm khùng khục. Có cái gì đó dồn ngắc ngứ cổ họng, không thể thoát ra.
*
Lão Thiện nhấp ly trà đặc, giọng bắt đầu khàn đặc của người cảm mạo:
“Tháng năm, sáu cưa, thả khe, đến tháng bảy, tám nước lên bộn thì thả bè. Ăn chuyến bè phải trôi xuôi ngót nghét hơn bảy mươi cây số. Mảnh rừng ấy không chỉ nuôi người, mà lắm khi giữ người.”
“Ồ, lo nhọc công hay sao mà không men lối rừng ama?” Tay nhà đài thắc mắc.
Lão Thiện khều củi, quẳng mấy khúc thông đẫm sương vào đống lửa, khói phả mịt mù vào giữa trảng rừng thâm u.
“Rừng dưới đó nào có rỗng rang như ở đây. Cây bụi hỗn giao, tre gai giăng kín như tơ nhện. Mở lối nhọc đã chớ, lại còn để lại dấu vết cho đám tắt mắt ăn phỗng. Đâu phải ai cũng sống bằng chính giọt mồ hôi của mình. Tụi đầu nậu có nhóm săn trảng, nhóm cưa xẻ, nhóm canh gác, nhóm vận tải..., nói chung là tổ chức đâu ra đó mà lắm khi phải đổ máu mới giữ được chén cơm. Huống chi cánh thợ rừng mồ côi chỉ một hai tay cưa. Nhứt là khi rừng không còn đủ sức để nuôi cái ước muốn không bờ không bến nữa.”
“Nghĩa là làm sao ama?”
“Nghĩa là cũng đến lúc những giá trị, sao, dầu, lát hoa, gõ đỏ... phải đỏ mắt tận thung sâu mới tìm được, mà cái hạn đóng cửa rừng đối với cánh ăn gỗ còn đáng sợ hơn mấy cái thây ma nửa chìm nửa nổi, ngụp lặn giữa đám tre gai um tùm. Sức nặng chén cơm dân bạt xứ có hề nhẹ.” Đôi mắt lão Thiện như chìm vào khoảng không mịt mù xa xôi nào đó, những ẩn ức một thời quá vãng.
Câu chuyện của ông lão gần như cả đời lang bạt khắp các cánh rừng miền Đông như thỏi nam châm hút chặt lấy đám nhà đài, trong khi Khải lơ đễnh, tựa lưng vào gốc thông, đăm đăm bóng trăng nhàn nhạt dưới đám nước lúp xúp cỏ đuôi chồn. Thượng huyền tháng bảy lúc ẩn lúc hiện giữa màn sương dày đặc. Ma mị như mảnh trăng bàng bạc vạt rừng Suối Kiền năm nào, khi sơ Nhiên dắt Khải ra bãi tha ma cạnh con suối, chỉ vào ba ngôi mộ lún phún cỏ dại và nhét vào hai bàn tay bé xíu bó nhang nghi ngút khói.
Vậy là từ đó, ngoài những việc vặt phụ giúp các sơ được phân công, thi thoảng, Khải lại cắt xóm, ra bờ suối nhổ cỏ dại, và đôi khi lơ lửng nhìn dòng nước thì thào cho đến khi bóng đêm từ trảng rừng xa lan tận gốc xà cừ Khải ngồi. Nhiều năm sau, khi dòng khí lưu len lỏi dưới những đám cây um tùm, rồi đánh thốc vào ba cái hố đất trống rỗng, bốc lên từng đám bụi mịt mùng, Khải mới lờ mờ nhận ra nhiều sự tồn tại ở cái xóm ngụ cư chạy rừng này, vốn dĩ được tạo ra cốt là để ngăn chặn những ý nghĩ đơn độc nào đó. Cho dù sợi dây gắn kết chỉ tồn tại trong một nhận thức mơ hồ, người ta cũng không muốn nghĩ mình lẻ loi giữa cái thế giới khắc nghiệt này. Chỉ có con trăng vẫn ở đó, chìm nghỉm dưới con sóng oài oặp đánh vào bờ đất. Lòng suối mở rộng sau mấy trận lũ, nuốt chửng từng đụn đất buồn thảm không người lui tới.
“Đất khẩn ba năm thành điền, ăn rừng năm năm thành trang. Trang ở đây là trang trại. Dân tứ chiếng đến nơi sơn cùng thủy tận này cũng là không còn cách nào kiếm được chén cơm. Thành thử sau mấy năm đánh bè, dành dụm đủ vốn liếng, là ngay tức khắc ra xóm tậu dê, bò, ruộng đất, giã từ cái nghề mạng treo đầu ghềnh. Nhứt là cánh mồ côi. Nhưng cái sự dự tính mấy khi suôn sẻ tuồn tuột như con nước dưới khe.” Lão Thiện đột ngột bỏ lửng câu chuyện, ngẩng lên tán thông lao xao gió, ẩn hiện vầng sáng leo lét như ngọn đèn dầu giữa túp lều lụp xụp của dân bạt rừng.
*
Nghe thấy tiếng rên khe khẽ, gã nghiêng đầu liếc vào góc lều tối om om, đoạn quay mặt về phía ô cửa sổ lòa xòa đám lá khô rũ, để lọt qua thứ ánh sáng nhờ nhợ ma mị.
“Coi bộ mấy chục năm nay mày sống thanh thản quá chớ Thiện?” Giọng người đàn ông ồm ồm phá tan bầu không khí tĩnh mịch, sộc mùi lá khô ẩm mốc.
Lão Thiện chống hai tay xuống đất, định rụt chân, toan đứng dậy, nhưng hai chân lão đã tê cứng, không thể cử động được. Lão sờ soạng hai cổ chân, không có vết dây trói, chứng tỏ lão đã nằm ở đây khá lâu. Mắt chưa quen với bóng tối, lão huơ tay khắp các phía định hình vị trí của mình. Trần lều thấp, chỉ vừa đủ để ngồi lom khom, không thể vươn vai để cái lưng lê khắp các cánh rừng của lão đỡ tê bì, đau nhức.
“Ông Liên đó phải không?” Lão Thiện cố nheo mắt, ngờ ngợ nhận ra cái dáng ngồi lệch hẳn sang bên trái.
“Liên vẹo, người rừng, gác rừng...tụi kiểm lâm gọi tao bằng cái tên gì cũng được. Nhưng mày, lẽ ra mày phải nhớ cái tên của tao chớ Thiện, nếu như lương tâm của mày còn chút gì cắn rứt.” Gã gằn từng tiếng một, như muốn đóng đinh lão Thiện vào góc tối của căn lều.
Lão Thiện chột dạ. Đây là lần đầu tiên lão nghe thấy thứ âm thanh gì đó phát ra từ lão Liên vẹo. Một vài lần chạm mặt trước kia chỉ là giây lát nhìn thấy cái bóng xiêu xiêu, rách như xơ mướp thoắt ẩn thoắt hiện trong đám sương mù. Ngay cả cánh kiểm lâm nhiều năm cắt cử người theo dõi, cũng không thể lại gần, nhưng cũng không phát hiện bất kì động thái nào cho thấy một tên tiền trạm, săn trảng, nên thôi. Thi thoảng, các toán kiểm lâm hay gác rừng tuần tra ngang qua đều cố ý để lại một ít gạo, muối và một vài thứ vật dụng ở những vị trí lão hay xuất hiện. Những thứ để lại đều bị lấy đi và những trảng rừng quanh khu vực đều được đốt thực bì vào mỗi mùa khô cho thấy sự đón nhận và cũng là sự hồi đáp. Một cuộc đối thoại câm kéo dài suốt hai mươi lăm năm ròng.
“Ông Liên, tui với ông nào giờ có oán có thù?” Lão Thiện thăm dò, cố lê hai cái cẳng chân tê rần tiến dần về phía cửa lều.
“Mày đẩy tao vô thung bạt rừng săn gốc cho thằng Bảy Thoi, mày phá nát gia đình tao. Mày tưởng trận lũ năm đó cuốn sạch những thứ nhơ nhuốc của mày rồi hả Thiện. Hay quá nhiều thằng khốn nạn bị mày đẩy ngược thung nên không nhớ nổi mạng nào còn mạng nào mất chớ Thiện?” Tiếng gầm của gã khiến lão Thiện giật mình, sợ hãi.
Lão khập khiễng từng bước một, mắt vẫn không rời cái thân hình đang run lên bần bật, chỉ cách lối ra một tầm với. Đột ngột, cái khối đen đúa xù xì ấy đứng bật dậy. Dưới thứ ánh sáng trăng trắng, lạnh lẽo, như được phản chiếu từ dải sương dày đặc bên ngoài ô cửa, một gương mặt kì dị chằng chịt những vết sẹo ẩn hiện sau mớ tóc lòa xòa quá vai khiến ông Thiện há hốc bàng hoàng.
“Chín Hùng! Mày còn sống? Mày...” Miệng ông lão cứng đơ. Gương mặt kì quái ấy đã ở ngay trước mặt ông. Gần đến nỗi ông lão có thể cảm nhận được từng hơi thở lạnh lẽo, tanh lợm phà vào mặt mình. Và trên cái nền chằng chịt những vết sẹo, hai hốc mắt trũng sâu hoăm hoắm, như không còn tồn tại.
“Tao phải sống chớ, sống để nhìn thấy kết cục của tụi mày chớ Thiện.” Gã gầm lên như con thú bị thương. Lão Thiện run lẩy bẩy, cảm nhận nỗi uất hận trong từng lời nói kẻ đối diện.
*
Lão dường như nghe tiếng ầm ào từ rừng thẳm. Những khối nước đỏ quạch bùn đất lao đi giận dữ, sôi sục. Chưa bao giờ lão thấy con suối Kiền lại hung tợn đến như vậy. Mặc dù trong đời bạt rừng của lão, lão không ít lần chứng kiến nó đã nuốt chửng bao nhiêu kiếp người đen bạc. Ròng rã nhiều tháng trời, lão xuôi ngược khắp các thung, các bãi tập kết, nhưng thông tin về Chín Hùng vẫn bóng chim tăm cá. Thứ duy nhất lão có thể tìm được là vết tích cái nền nhà được nện kĩ thứ bùn đỏ hong khô dưới cái nắng vỡ đầu miền Đông. Lần cuối cùng lão nhìn thấy gã là khi gã lùa đàn dê vừa sang tay của Năm Nhẫn rời bãi cỏ ven rừng, đi về phía xóm, chuẩn bị cho chuyến đi xa hơn về phía Nam. Lão vội gọi với, nhưng những thanh âm chưa kịp thoát ra khỏi thanh quản đã tắt tị, trở nên khùng khục sau cú đấm của Bảy Thoi. Lão gục xuống đám lá hoai mục, nhìn cái bóng áo Chín Hùng khuất dần sau đám tre um tùm. Hơn nửa năm sau, phong thanh Chín Hùng trở ngược thung, lão mới tin chắc vào điều mà mình hi vọng sẽ không bao giờ xảy ra, rằng lão đã gây ra tội lỗi tày trời.
“Thằng Bảy Thoi đã hứa gì để mày mồi chài tao rước bầy ôn dịch của thằng Năm mà tao còn mang ơn nó như ân nhân?” Gã rít lên giận dữ. Hai gương mặt sát nhau đến nỗi lão Thiện chắc rằng mình đã thấy những tia lửa vằn vện từ hai hốc mắt tối đen thăm thẳm.
Lão Thiện vẫn không trả lời. Tâm trí lão vẫn chìm lẫn với từng đợt sóng dữ dội của con suối Kiền. Ngày ấy, lão đã dúi vào tay Chín Hùng bó lá vừa giúp Năm Nhẫn chặn đứng thứ bệnh dịch bệnh lan nhanh như nước lũ làm cho miệng lũ dê lở loét, ngã gục chỉ sau mươi ngày lây nhiễm. Và một bó lá thuốc để chữa cho thằng nhỏ mới ra đời chưa đầy tháng nhưng đẹn nổi trắng miệng, khóc thâu đêm suốt sáng.
“Cái này giã nhuyễn, chà lên mấy chỗ đẹn cho thằng nhỏ. Còn cái này giã lấy nước hòa vô nước suối cho mấy con dê. Tụi nó nghe cái mùi gây gây này là dội nên phải nhốt khát đến cuối ngày hẳn cho uống à nghen. Đừng có lộn à.” Lão Thiện cẩn thận dặn dò Chín Hùng.
Ở cái nơi sơn cùng thủy tận này, nào ai có phân biệt người chữa cho người hay người chữa cho vật. Thành ra mớ lá nhì nhằng của lão Thiện cũng chẳng mấy ai bận tâm nó bao gồm những thứ của nợ nào. Điều duy nhất mà cánh săn gốc dựng nghiệp như Hùng biết là, ở cái xứ cùng tận này, người hay vật lăn ra, đều đi tìm lão. Dăm bữa nửa tháng lại băng rừng phăm phăm, lại cưa, lại xẻ hùng hục.
“Mày muốn...” Lão Thiện không trả lời câu hỏi của Chín Hùng.
“Nếu tao muốn trả thù thì tao đã xuống tay mấy năm trước, khi mày cắt đám pơ-mu dưới kia rồi. Nhưng nghĩ lại, tao tham tao chịu, không trách ai được. Lẽ ra tao nên nghĩ xa hơn khi thấy thằng Bảy Thoi to nhỏ với mày ở mé suối, ngay sau khi mày nài được thằng Năm bán rẻ cho tao bầy dê chỉ bằng nửa giá.” Gã đấm mạnh vào nền đất, khiến lão Thiện giật mình, thối lui.
Chuyện bầy dê của Chín Hùng chết thảm ở Xuân Lộc khiến gã phải quay lại thung đào gốc gõ trả nợ trở thành câu chuyện mỉa mai khắp các bãi tập kết lúc bấy giờ. Bởi lẽ, sau nhiều năm tháng đánh vật với cánh rừng Suối Kiền này, đa phần vẫn phải nốc cạn chai rượu pha cồn mới vơi đi nỗi ám ảnh ngày chấm dứt cảnh bạt rừng, mới nhắm nổi đôi mắt đêm muộn rừng sâu. Thì hình ảnh Chín Hùng hiên ngang đưa vợ con rời thung với bầy dê nghìn con có lẻ lại không đủ để dằn vặt những kiếp người bất hạnh hay sao. Cái sự trắc trở của Chín Hùng trở thành cái cớ để những kẻ chưa thể thay đổi phận mình cho rằng ông trời đã đối xử thật công bằng. Nhưng Bảy Thoi ra tay như nào? Lão Thiện dằn vặt mãi cũng không thể hiểu. Duy lão hiểu một điều, lão đã trở thành một kẻ tiếp tay ngờ nghệch.
Nhưng gã hiểu.
*
Khác với các tay săn trảng, Chín Hùng chọn con đường nhọc công hơn, nghĩa là săn gốc. Vừa tránh phải cạnh tranh với các toán cưa cánh đầu nậu, vừa thu được phần lõi tốt nhất. Do đó, những khu vực bị các toán thợ bỏ lại sau khi cưa hạ những cây gỗ lớn chính là địa bàn gã hay lui tới. Kinh nghiệm nhiều năm lăn lộn tại Suối Kiền cho gã biết rằng, những gốc gõ bị bỏ lại có chiều cao và đường kính thân tầm một mét, nếu đào sâu, có thể thu được phần lõi hơn hai mét. Cứ vào mùa gió chướng từ tháng mười một đến tháng tư, gã lặng lẽ mang theo ít gạo, muối và thực phẩm khô vào thung. Đến khi con nước suối Kiền đến thắt lưng, người ta lại thấy gã hì hục lôi từ dưới suối lên những lóng gõ thẳng tắp, và được đám lái gỗ săn đón, sẵn sàng trả giá gấp rưỡi đến gấp đôi.
Lẽ dĩ nhiên, việc làm của gã không tránh khỏi tai mắt của các nhóm đầu nậu. Đặc biệt là khi các toán săn trảng trở về tay trắng thường xuyên hơn, trong khi những món tiền lái gỗ phải trả trước hàng năm trời đã được tiêu pha vào chiếu bạc, những trận rượu bữa thâu đêm suốt sáng, thú vui của những kẻ muốn lãng quên đời mình, cho dù chết rấp xó này. Do đó, chuyện gã thợ rừng mồ côi nổi tiếng liều mạng rục rịch tìm mua gom hơn nghìn con dê để bỏ thung khiến Bảy Thoi - đầu nậu khét tiếng khu vực Suối Kiền phải mất ăn mất ngủ. Sau nhiều lần thuyết phục thất bại, gã tỏ vẻ buông xuôi, tổ chức bữa rượu linh đình đưa tiễn.
“Chú mày cầm lấy để gom cho đủ, khi nào có thì trả, không phải ngại.” Gã hào sảng dúi vào tay Chín Hùng gói vải rậm rịt thứ bùn đỏ.
Từ chối mãi không được, Chín Hùng tặc lưỡi, bỏ vào túi vải dắt thắt lưng. Gã đâu ngờ rằng món tiền ngót nghét nửa bầy dê mà gã hằng mơ ước lại khiến gã phải bồng trống vợ con trở lại thung. Ngày gã nuốt nước mắt đào hố chôn từng con dê lở loét, tanh lợm, cũng là ngày đàn em Bảy Thoi tìm đến, đòi bằng được số tiền cho mượn trước đó. Hoặc là vào thung tiếp tục săn gốc đủ số trước khi lệnh đóng cửa rừng chính thức có hiệu lực.
Gã run run xòe lòng bàn tay, đưa lên ngang tầm mắt lão Thiện:
“Mày lấy cái này ở đâu?” Hai hàm răng gã vẫn nghiến chặt.
Lão cố nheo mắt, nhìn cái vật đen đen dưới ánh sáng trăng trắng, nhờ nhợ hắt vào từ khoảng không mênh mông sương trắng bên ngoài.
“Tao chưa thấy cái này bao giờ. Chắc là của ai đó trong đoàn.” Lão cố lục lọi trí nhớ.
Chín Hùng ngồi đánh phịch xuống nền lá ẩm ướt. Biểu hiện ngơ ngác trên gương mặt lão Thiện cho gã biết lão không nói dối. Nhưng gã vẫn le lói hi vọng. Cũng giống như cái đêm trăng thượng huyền tháng bảy năm nào.
“Chừng nào dọn lại về trấn, ba bắt cho cái cái đèn điện to sáng hơn cả ông trăng đằng kia.” Gã tỉ tê với thằng nhỏ chưa đầy tuổi, vừa tỉ mẩn khắc chạm những hoa văn nguệch ngoạc trên miếng gỗ nhỏ xíu. Thằng nhỏ vẻ như không nghe thấy, ê a, nhìn hai cái bóng hiu hắt lê dài trên khoảng sân. Ngọn đèn dầu leo lét trên bàn thờ không đủ soi rõ gương mặt ủ ê của người hai người đàn bà, một già, một trẻ, vẫn lặng lẽ trông ra từ ngạch cửa. Tờ mờ sáng hôm sau, một đôi nam nữ dắt díu rời căn nhà tạm lụp xụp bên bờ suối Kiền, đi vào thung sâu, rồi không còn trở về được nữa.
*
Khung cảnh hai ông lão cùng nhau chui ra từ đám sương mù dày đặc quây kín trảng thông ba lá khiến cả đoàn lố nhố, há hốc. Bởi lẽ, xưa nay, lão Liên vẹo thấy người như thấy phải hủi, biến mất không hề để lại vết tích gì. Bên cạnh đó là sự biến mất đột ngột của lão Thiện khi cả nhóm tiến sâu vào cánh rừng pơ-mu, sau gần hai giờ đồng hồ phát đám mây gai chằng chịt mở lối. Sự phấn khích của đám thanh niên khi đặt chân lên thảm rừng bồng bềnh, êm như nhung với ngót nghét hàng mét lá khô rơi dày bên dưới, đây đó những thân pơ-mu chọc trời, bốn năm người ôm không xuể, khiến ai nấy quên mất nghĩa vụ phải quan sát người đi cùng. Chính Khải là người đầu tiên phát hiện lão Thiện mất bóng khi anh thấy những cây thông hai lá rải rác giữa trảng pơ-mu, háo hức dõi mắt định tìm lão để huyên thuyên những điều nhìn thấy. Sau hai ngày hoài công tìm kiếm, lão lại lù lù xuất hiện theo cách chẳng ai có thể ngờ tới.
Lão Liên vẹo lặng lẽ rẽ đám đông lố nhố, chậm rãi bước đến trước mặt chàng thanh niên vẫn đang xì xụp chén canh bắp cải me chua.
“Cái này của con phải không?” Lão đong đưa chiếc mề đay trước mặt Khải.
“Dạ… phải!” Anh lí nhí đáp, mắt vẫn không rời gương mặt kì dị, chằng chịt những vết sẹo của kẻ kì lạ đối diện.
“Cho hỏi khí không phải, cái này con lấy ở đâu?”
Tâm trí Khải như bị hút vào hai hốc mắt sâu hun hút, chỉ có điểm sáng bằng đầu que tăm báo hiệu sự tồn tại của thứ gì vẫn còn sống.
“Các sơ ở trại trẻ thấy nó trong túi áo của con khi lượm con từ cái bè chuối dạt bãi tha ma đầu xóm Bạt, bãi bồi suối Kiền.” Khải đưa mắt xung quanh, chợt nhận ra lão Thiện đang ra dấu cho tất cả mọi người trong đoàn tản xa khu vực dựng trại.
Hai người, một già một trẻ, lặng lẽ ngồi bên đống lửa, đến đêm muộn, chẳng ai nói với ai nửa lời. Tiếng nổ lách tách từ những thanh củi thông đẫm sương gần như át thanh âm rỉ rả của dòng nước tuôn ra từ con suối cạn, đổ vào ao nước nhỏ, lấp loáng dưới chân đám cỏ đuôi chồn. Chẳng bù cái sự ầm ào, hối hả của con suối Kiền mùa nước lên - Khải thầm nghĩ, nhớ đến vạt tha ma xóm Bạt bị dòng suối nuốt chửng sau cơn lũ năm nào. Những ngôi mộ cô độc, ngập cỏ, tuyệt không bóng người thăm viếng. Mà có khi đó cũng chỉ là những hố đất trống rỗng, như mộ của ba mẹ Khải, của nội Khải. Những ngôi mộ gió chỉ để những kẻ sinh trưởng trên mảnh đất này tin tha thiết vào một sự gắn kết nào đó.
“Có lẽ bác cần quay lại Suối Kiền, nếu được… hai con trăng tới...” Giọng ông lão trở nên thều thào, đứt quãng, như người cố cất tiếng nói giữa cơn nấc.
“Bác là người Suối Kiền?” Khải không khỏi kinh ngạc. Những kẻ đặt chân đến suối Kiền đều là những kẻ đã cùng trời cuối đất, hoặc bất đắc chí, hoặc cùng đường mạt vận. Vậy thì tại sao hoặc thứ gì đã đẩy kẻ này lên tận chốn lam sơn chướng khí này để tiếp tục chôn vùi đời mình suốt mấy mươi năm? Liệu có ai đã từng bước ra từ một trong những ngôi mộ gió xóm Bạt? – Khải bật cười vì những suy nghĩ vẩn vơ, vô nghĩa.
![]() |
Ảnh minh họa. Nguồn Internet |
Trời sáng hẳn, đoàn nhổ trại, cắt trảng pơ-mu, tiếp tục đổ dốc về hướng Nam. Lão Liên vẹo phăm phăm tay rựa phát mây gai mở từng chặng, đến quá trưa thì vượt qua trảng hỗn giao, tiến vào cánh rừng bạt ngàn tre.
“Vượt qua mảng rừng tre này là đến khu vực rìa Phước Bình.” Ông lão hất hàm về phía những rẫy điều vàng rộm nắng xế, vừa róc mấy thanh sào, trao cho từng người trong đoàn. Thấy Khải cầm cây sào dài non hai sải tay người lớn ngơ ngác. Lão Thiện giảng giải:
“Muốn ra khỏi trảng tre này thì phải chuồi theo mấy cái dốc phủ đầy lá tre khô dưới kia. Cái này để giảm đà lao xuống dưới, tránh lọt vô mấy bụi gai.” Nói đoạn, ông lão rẽ vào lối mòn ngay trước mắt. Chân trụ vừa rời mô đất, lão Thiện lao đi vun vút xuống bên dưới. Thanh sào vướng vào những bụi tre hai bên lối mòn giúp lão giảm tốc, rẽ khuất bóng. Nhìn đoàn người đùn đẩy, do dự, Khải đành tặc lưỡi, đưa ngang thanh sào dưới tầm ngực, hít một hơi thật sâu, buông trụ. Sau hơn chục lần rẽ, anh thở phào nhìn nắng chiều nhảy múa trên những thân điều trụi lá, trước ánh mắt ngơ ngác, tò mò của những người đàn ông Ra Glai, đoạn họ lại vung từng nhát cuốc lên thớ đất cằn, đầy nhẫn nại.
Như sực nhớ điều gì, Khải ngoảnh mặt về phía ghềnh đá, chếch trên trảng rừng tre um tùm. Lão Liên vẹo vẫn đứng ở đó, phóng tầm mắt xuống khoảng không mênh mông nắng bên dưới. Cái bóng đen đúa trở nên lẻ loi giữa màu xanh bạt ngàn rừng thẳm. “Vậy là vẫn còn thứ gì đó níu kéo mình ở cái xóm Bạt hắt hiu đó.” Khải cười mỉm nghĩ đến cuộc hẹn kì lạ sau hai con trăng, lửng thửng theo đoàn người tiến vào con lộ trải bê tông, hướng về trung tâm huyện.