Cái đèn nhỏ với chiếc tim hình trụ tròn, lăn lộn trong mớ dầu hỏa có mùi hăng hắc, thường được vặn nhỏ bấc để khống chế ngọn lửa. Ngọn lửa đèn dầu leo lắt mảng sáng tối loang lỗ quanh đế, như mấy bóng mờ kí ức của thế hệ sống trong những năm một ngàn tám trăm… hồi ấy. Cái thế hệ lớn lên từ những ánh đèn dầu.
|
Dưới ánh đèn dầu sáng loang là những bóng lưng cả đời gồng gánh. Là bóng lưng bà xâu kim vá lại chiếc áo đã sờn đổ lông. Là bóng lưng mẹ cạnh nền giếng nhỏ cột từng bó rau muống cho chuyến chợ sớm. Hay bóng lưng bố soi đêm, với cái giỏ tre đựng đầy cá cua sau đợt mưa đầu hè. Những bóng lưng khuất trong tối mù, nhường khoảng sáng cho mấy hi vọng được thực hiện dưới ngọn đèn nhỏ.
Đèn dầu thắp lên cũng là lúc giờ học bài của đám trẻ con đã đến. Những con chữ được ê a đọc dưới khoảng sáng lay lắt. Chẳng thế mà người ta hay gọi là tốn bao nhiêu năm đèn sách dùi mài. Còn nhớ mỗi lần tôi học bài, bố thường vặn to bấc của đèn dầu trên bàn, ké chút sáng hắt ngoài sân để đan nốt nong, nia đặng mai đem bán. Nhà lúc ấy hãy còn thiếu ăn, có chút dầu hỏa thắp đèn cũng phải tiết kiệm hết mức. Thành ra chẳng bao giờ có quá ba ngọn đèn cùng được đốt sáng. Một cái trên bàn thờ. Một cái cạnh bàn học. Một cái mép hành lang. Cả nhà tụ cùng nhau quanh ngọn đèn dầu, dùng khoảnh khắc quây quần để kể nhau nghe vài ba câu chuyện nhỏ. Dưới ánh đèn tỏ, mỗi người đều nhanh tay làm cho xong việc còn dư ban sáng. Ánh đèn cứ thế ủ ấm lên nụ cười răng đen của bà, chữa lành cái mệt nhọc đã theo chân bố mẹ một ngày trên đồng lúa. Ánh đèn cũng chui tọt vào giấc mơ của đám trẻ, thành những con chó, con vịt từ cái chụm tay hắt lên vách tường. Ánh đèn dầu, chợt nghĩ tới, lại thương.
Mỗi năm Tết lựng khựng về tới đầu ngõ, mẹ tôi thường lọ mọ đem mấy cái đèn dầu ra sau giếng lau khô. Mấy cái quầng khói đen hun mờ bóng chụp được mẹ tháo ra rồi dùng khăn chà kĩ. Tim đèn cũ được mẹ thay mới. Dầu hỏa dưới thân đèn cũng được châm đầy. Cái đèn dầu làm lụng một năm chợt được nghỉ ngơi, khẽ sóng sánh trong bộ đồ mới. Mấy cái bụi bẩn đen sì phủ bóng đèn dầu được bỏ lại năm cũ, với ước mong về sự tươi sáng cho năm tiếp theo. Rồi riết lại thành cái lệ. Cứ thấy mẹ đem đèn dầu ra giếng chà lau, liền biết cái xuân đã về đủng đỉnh.
Ngày mà nguồn sáng ban đêm được thay bằng đèn điện, nhà tôi chỉ còn giữ lại một ngọn đèn dầu. Ấy là cái đèn hột vịt trên bàn thờ của bà, của bố. Cái đèn được thắp lên từ nhớ nhung kí thác, muốn thông qua nó để kết nối tới thế giới của những người đã về miền muôn năm cũ xa xăm. Ánh đèn dịu nhẹ chỉ vừa đủ để thấy nhau trong đêm, vậy mà lại như một loại gửi gắm qua bao đời gắn bó. Ánh đèn dầu thắp sáng ban thờ, là cách tôn kính tổ tiên qua hành động truyền lửa và giữ lửa. Ánh đèn dầu cũng giữ trong mình cái nóng để xua tan tà ma, lạnh lẽo, thay người khuất mặt bảo vệ gia đình như cái thời cùng nhau sẻ áo nhường cơm. Ở thời mà lúc không giờ chỉ xuất hiện trong mấy câu chuyện kể, đèn dầu gắn bó xuyên suốt từ thuở mới lọt lòng phải học con chữ, tới lúc nhắm mắt xuôi tay với ánh đèn đặt cạnh ban thờ, tiễn đưa người về thế giới bên kia.
Mỗi giai đoạn phát triển của xã hội lại gắn liền với những chứng nhân lịch sử. Đèn dầu đã hoàn thành sứ mệnh thắp sáng của nó trong cái thời điện chưa về xóm thôn. Dù đèn dầu ngày nay chẳng còn là một vật dụng thường nhật, nhưng nó vẫn luôn được đặt trên vị trí trang trọng nơi góc bàn thờ, như một cách tri ân cho ngọn đèn dầu mang ánh sáng năm xưa. Chẳng thể phủ nhận sự tiến bộ từng ngày của những ánh đèn điện. Thế nhưng đâu đó trong một nẻo sơ tâm, đèn dầu hột vịt vẫn chiếm cứ một địa hạt nhớ thương của bao kẻ lữ hành. Những kẻ thắp đèn, chỉ để soi kí ức.