Trên trang viết họ dùng chữ truyền đi thông điệp sống để người đọc yêu thương cuộc đời này. Nghề giáo dẫu nhọc nhằn nhưng với đam mê văn chương mãnh liệt, họ luôn chắt chiu thời gian quý báu để sáng tác. Không ít nhà giáo kiêm nhà văn đã xác tín hành trình văn chương của mình trong lòng độc giả.
|
Tôi đọc Nguyễn Chí Ngoan cách đây 5 năm, từ tập truyện ngắn Bến chờ. Tôi nhớ ấn tượng trong đầu mình là một giọng văn đau đáu về đất và người của một vùng miệt thứ bát ngát chuyện. Gọi là bát ngát chuyện bởi ở đó, Nguyễn Chí Ngoan kể những điều mà mình đã thấy, nghe và trải qua trong suốt quãng đời sinh ra và lớn lên với sóng nước Cửu Long. Nguyễn Chí Ngoan đoạt Giải thưởng Tác giả trẻ của Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2019 với tập truyện ngắn này. Cũng từ đó, cái tên cây bút trẻ 9X này bắt đầu xuất hiện ấn tượng trên khắp các mặt báo.
Nguyễn Chí Ngoan sinh năm 1991 tại huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang, tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm Kiên Giang năm 2012, và có 13 năm đứng trên bục giảng, hiện đang công tác tại Trường Tiểu học Thuận Hòa 1, xã Thuận Hòa tỉnh An Giang. Nguyễn Chí Ngoan viết đều tay ở các mảng thơ, văn xuôi. Nhưng như những loài hoa đúng nắng, đúng mưa và đúng mùa mới nở, có lẽ với dòng văn học thiếu nhi, Nguyễn Chí Ngoan mới gây được dấu ấn mạnh mẽ với các tác phẩm của mình. Bởi như thầy giáo miệt thứ này chia sẻ thì nghề giáo giúp cho anh có nhiều câu chuyện khi tiếp xúc với phụ huynh, chính những câu chuyện đó làm nên chất liệu để anh bày biện trên trang viết. Cái may mắn của Ngoan là được dạy cho thiếu nhi, những hồn nhiên trong trẻo hằng ngày anh nhìn thấy đã cho anh một cảm xúc mãnh liệt để mang vào những sáng tác của mình.
Từ Giải thưởng thiếu nhi Khát vọng Dế Mèn lần I - năm 2020 với bản thảo truyện ngắn Mộng giang hồ, Nguyễn Chí Ngoan đã cho in thành tập truyện ngắn Rồi nắng cũng lẻ loi, xuất bản năm 2022. Tập bản thảo đoạt giải ngày đó chỉ vỏn vẹn 7 truyện, dù khá mỏng theo đánh giá của ban giám khảo nhưng vẫn tạo ấn tượng mạnh cho những người thẩm định bởi lối viết chân thành và dạt dào xúc cảm. Đó là những ngày dịch Covid-19 khiến xã hội như đứng chựng lại. Tâm thế của con người dường như cũng chậm và lắng. Với một người viết, lúc đó là lúc mình chiêm nghiệm những thăng trầm của khoảng đời mà mình đã trải qua. Cây bút trẻ này cũng thế, ngồi xuống và kể những câu chuyện mình ấp ủ, những câu chuyện thân thuộc hiện hữu chung quanh cuộc sống mình. Viết như trút lòng mình với những điều mà đôi khi cuộc sống vội vã hằng ngày không cho Ngoan có cơ hội để trải ra bằng câu chữ. Năm 2023, việc được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam như một sự xác tín cho hành trình văn chương của Nguyễn Chí Ngoan.
|
Đợt kết nạp hội viên năm 2023 của Hội Nhà văn Việt Nam, còn có Trần Thị Tú Ngọc, cũng là một giáo viên. Cô giáo trẻ sinh năm 1984, tốt nghiệp Đại học Vinh năm 2006, hiện đang là giáo viên địa lí ở Trường Trung học phổ thông Hương Khê - Hà Tĩnh. Trần Thị Tú Ngọc đã xuất bản các tác phẩm: Ngụ ngôn tháng Tư - tập truyện ngắn 2019; Linh mộc - tập truyện ngắn 2022; Lặng yên sau cơn mưa – tập truyện ngắn 2024. Tôi nhớ mình đã mê mẩn đọc truyện ngắn Ngụ ngôn tháng Tư của Ngọc đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Một truyện ngắn ám ảnh về đề tài chiến tranh. Sau này có dịp gặp lại Ngọc ở trại sáng tác năm 2022 tại Cần Thơ do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức tôi khá ngỡ ngàng bởi sự mô phạm toát ra từ dáng vẻ cho đến cách sống với văn chương của Ngọc. Đến năm 2023, chúng tôi lại cùng tham gia trại sáng tác ở Ninh Bình, cũng do Nhà số 4 tổ chức. Lúc này, chúng tôi đã thoải mái nô đùa, tếu táo giỡn cùng nhau. Nhưng khi ngồi nói chuyện về văn chương, Ngọc lại cho tôi thấy một sự nghiêm túc và dấn thân rất kỉ luật. Hầu như ở cả hai trại sáng tác Trần Thị Tú Ngọc đều bám sát các chuyện thực tế, dùng chính những tư liệu địa phương để tạo nên những tác phẩm đặc biệt. Cô giáo Hà Tĩnh này sáng tác ngay chính trong trại, hằng đêm luôn dành thời gian viết. Đều đặn thế, đến khi có tác phẩm nộp mới thong dong dạo chơi. Tôi nể cái nếp giữ kỉ luật viết đó của Ngọc. Nhưng, để có một kỉ luật viết như vậy, Ngọc cũng phải tập và giữ nó nhiều năm tháng mới hình thành được. Vừa dạy vừa viết lại chăm sóc gia đình nhỏ của mình, điều này đòi hỏi phải cân bằng thời gian trong ngày phải thật tốt. Nhưng, tôi tin tồn tại trong trái tim của những nhà văn làm nghề giáo là một trữ lượng yêu thương tích cực mà chính nghề giáo đã mang đến cho các nhà văn trong tư duy sáng tác.
Dẫu nhiều thách thức với một nhà văn đứng trên bục giảng, nhưng Trần Thị Tú Ngọc cũng ghi dấu ấn cho đường văn của mình bằng hàng loạt giải thưởng như: năm 2015 cô đoạt giải Nhất cuộc thi Sáng tác văn học Tạp chí Văn nghệ Bình Định năm 2019; giải Ba cuộc thi truyện ngắn Lửa Mới Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2019; giải C của Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2019; giải B Giải thưởng văn học nghệ thuật Nguyễn Du lần thứ VII năm 2020; giải B Giải thưởng văn học 5 năm Bộ Quốc phòng (2020-2024)... Bấy nhiêu thôi đã cho thấy một hành trình vượt thoát của Ngọc từ bục giảng đến trang văn.
|
Cũng là lứa viết 8X, nhưng Bảo Thương lại là cái tên khiến tôi cực kỳ ấn tượng. Tôi nhớ mình đọc cô giáo dạy môn ngữ văn của trường Trung học phổ thông Chu Văn An, tỉnh Bắc Ninh này từ hai truyện ngắn Tháng mười củi khô, Mùa đã đi qua được trao giải Ba cuộc thi truyện ngắn (2018-2020) của Tạp chí Nhà văn và Tác phẩm. Sau đó, tôi lại đọc cuốn tiểu thuyết Mùi hoàng Kim, và rợn cả da mình lến bởi độ gai góc, mãnh liệt từ một cô giáo viết văn mang lại. Tiểu thuyết này là dòng hồi ức của nhiều nhân vật cùng xưng tôi, kể về đời mình. Qua đó, tái hiện nỗi buồn, thân phận đắng cay, xa xót của những kiếp người trong và sau cuộc chiến. Thằng câm, thằng anh, bố và nhân vật Khai nói lên tiếng nói đi từ bản năng xác thịt đến ngóc ngách tâm hồn bằng giọng kể mang “góc nhìn tôi” thăng trầm từng quãng sống. Biên độ thời gian và không gian nở ra tận cùng của hành trình sống một kiếp người. Tiếp cận chiến tranh từ đề tài thân phận con người là điều không mới mẻ. Tuy nhiên, Bảo Thương đã đi sâu khai thác họ từ góc nhìn tính dục. Những ẩn ức tình dục được khai thác kiệt cùng, với những góc khuất tâm tư sâu kín, cũng như ước mơ, khát vọng, trăn trở, cả nỗi đau của những con người trở về từ cuộc chiến và những con người sau cuộc chiến. Ai đã đẩy con người đến bi kịch này, để niềm hạnh phúc tối thiểu, nỗi mong cầu tưởng như đương nhiên là nhu cầu thể xác cũng bị tước đoạt. Bảo Thương đi sâu khai thác những ẩn ức tình dục cũng như số phận con người - nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp của cuộc chiến tranh. Một mảng hiện thực đời sống xã hội kéo dài mấy chục năm cũng được tái hiện trong tác phẩm. Bằng bút pháp hiện đại, biến hóa, Bảo Thương đã góp thêm cho nền văn học một cái nhìn mới mẻ về chiến tranh. Tuy nhiên cái khiến độc giả gai người là những độc thoại nội tâm của nhân vật, như chính phần hồn đấu tranh cùng phần xác; như chính phần người giành giựt với phần con; và như chính nỗi đau giằng xé cùng hạnh phúc. Giọng văn lúc trữ tình, khi sắc lẻm, và đôi chỗ như vết cứa bén ngót vào tâm khảm của độc giả. Hằn lên trí não người đọc một vết thương sâu hoắm của những người trở về sau cuộc chiến. Vết thương thịt da có thể lành theo năm tháng nhưng vết thương lòng đôi khi tê buốt cả quãng đời.
Tôi ấn tượng với Bảo Thương về Mùi hoàng kim nên trong đầu mình mặc định đây là một tác giả âm trầm, mê mị và khép kín. Thế nhưng, cô giáo ngữ văn này lại là một người đã bền bỉ trên bục giảng hai mươi trời. Vài năm trở lại đây, mỗi mùa hè, Bảo Thương lại cùng cha mình thang lang khắc nơi. Khi thì bám vào cung đường miền Bắc để ngao du sơn thủy, khi ngược về chiến trường miền Trung khói lửa để hong ấm kỉ niệm cho bố. Lắm lúc lại thấy cô hành phương Nam để tao ngộ cùng bạn văn. Và tôi gặp Bảo Thương vào một mùa hè 3 năm trước. Bên ly cà phê góc quán rêu mờ bờ tường, gió liêu xiêu, nắng hung vàng, Bảo Thương lại khá liến thoắng, cởi mở, và rất đời, dẫu trên trang viết đầy gai góc.
|
Trong thế hệ 8X, có một nhà văn mà gây cho tôi khá bất ngờ ở tính cách nhất chính là Lê Vũ Trường Giang. Vị tiến sĩ - giảng viên Đại học Huế này chỉ mới sinh năm 1988 nhưng tác phẩm của Giang đã để lại dấu ấn mạnh mẽ cho độc giả trong nước. Giang có sở trường viết truyện sử, đặc biệt là vùng đất cố đô quê xứ của mình. Đất Thần kinh qua tác phẩm Giang như khoác lên chiếc áo mới, khơi lên trầm tích lịch sử, để từ đó khai sáng những câu chuyện còn khuất lấp sau bao biến thiên thời cuộc và độ lắng của thời gian. Tập truyện ngắn Ngủ giữa trùng sơn (NXB Văn học, 2013) được văn giới đánh giá là tập truyện sử định hình phong cách viết tinh xảo của Giang. Tuy vậy, tôi lại tiếp cận văn chương Giang từ tập Căn cước xứ mưa bởi ngôn ngữ Giang dùng trong tập tản văn này cho thấy một khả năng biến hóa tinh tế ảo diệu. Từ thành quách đền đài uy nghi, đến thiên nhiên kì vĩ, và tinh túy ẩm thực cố đô đã cho thấy một Lê Vũ Trường Giang quan sát rất kĩ càng và viết rất cẩn thận, nhưng vẫn đầy sự phiêu linh, thăng hoa cùng câu chữ. Nhưng, có lẽ chính Bạc màu áo ngự in năm 2022 mới là tập truyện cho thấy một Lê Vũ Trường Giang bứt thoát mạnh mẽ và xác tín sự hiện diện của mình trong dòng văn học lịch sử của văn đàn Việt.
Nhắc đến Lê Vũ Trường Giang bạn đọc và cả giới viết đều nghĩ ngay đến anh chàng đậm đà chân phương, nụ cười hiền lành, giọng nói rặt Huế và văn cũng đằm đẵm uốn lượn như sóng nước sông Hương, mang mang một nỗi mình, nỗi đời dành cho lịch sử. Ở tập truyện Bạc màu áo ngự độc giả chạm đến những da diết về chiến cuộc, về thân phận con người, về tình yêu và cả những niềm đắng đót thời hậu chiến. Lê Vũ Trường Giang “rất Huế” khi viết về Huế, khi khơi dòng lại trang sử hào hùng của cuộc chiến trong nội thành Huế vào Tết Mậu Thân 1968. Bên dưới Hoàng cung Huế là tầng tầng lịch sử mà tin chắc không nhiều cố đô nào có được trên thế giới. Chỉ một vỉa tầng lịch sử hơn 50 năm nằm dưới lớp gạch cũ được Giang “trùng tu” lại để bạn đọc chiêm ngưỡng. Một cuộc chiến khủng khiếp dành cho cả hai bên. Một cuộc chiến khiến hàng triệu người Mĩ xuống đường đòi chấm dứt chiến tranh, đòi ngưng ném bom và ngồi lại hòa đàm như những người trọng danh dự. Với các truyện như Tôn nữ còn buồn, Bạc màu áo ngự, Từ bờ bên kia, Bóng gươm tịnh độ, Phía dưới cầu vồng, Phượng hoàng trăng… độc giả sẽ đi qua các địa danh nổi tiếng của miền Trung như: Ái Tử, Khe Sanh (Quảng Trị), Sơn Mỹ (Quảng Ngãi), Gò Bồi (Bình Định). Rồi lan sang Hồng Kông, Algérie, New York. Nhưng, dù ở bất cứ không gian và thời gian nào, mọi cuộc chiến đều vô nghĩa. “chỉ có người nằm xuống mới biết được chiến tranh đã kết thúc như thế nào”. Và cũng chỉ có niềm bác ái và sự hòa hợp mới là giá trị vĩnh cửu của cuộc sống này. Lịch sử của ngàn năm trước cho đến ngàn năm sau vẫn vậy. Lần giở lại bằng góc nhìn văn học luôn cho chúng ta những triết luận đáng để chiêm nghiệm.
Tôi nhớ có lần đi trại sáng tác cùng Giang, những tưởng một nhà văn, giảng viên, tiến sĩ sẽ là người đạo mạo nghiêm nghị, nhưng hóa ra Giang tinh nghịch và vô tư hồn nhiên như một đứa trẻ. Chúng tôi chơi giấu dép, chơi đập cửa, rủ nhau đi bộ lang thang khắp Ninh Bình, rồi Giang lại mượn xe máy của nhà văn Vũ Thanh Lịch để một mình ruổi rong khắp nơi. Giang sống và viết rất đời. Cái đời của Giang nó thể hiện cả trong những cuộc thiện nguyện giúp đỡ sinh viên nghèo. Hết lòng, hết dạ và không quản khó khăn. Ngay khi cơn bão lũ đang giày xéo Huế vào những ngày cuối tháng 10 đến đầu tháng 11 vừa qua, Giang đã chèo xuồng vào các vùng sâu xa để cứu giúp bà con đang trong cơn nguy biến. Ở góc nào, trên bục giảng, trang văn, hay cuộc sống, tôi vẫn thấy Giang rất “đời”. Một “đời” rất mực tử tế.
|
Nhà văn và cũng là nhà giáo nên trái tim rung cảm của họ luôn đầy trăn trở. Khi trao đổi cùng Nguyệt Chu tôi nhận ra đó chính là mấu chốt để các tác phẩm của họ luôn đau đáu chuyện đời. Nguyệt Chu sinh năm 1986, hiện đang là giáo viên ngữ văn của trường Trung học phổ thông Sơn Tây. Có tới 15 năm đứng trên bục giảng, cô nàng Thạc sĩ ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam này vẫn máu lửa khi nhắc đến sự thuận lợi lẫn khó khăn của một giáo viên viết văn. Với Nguyệt Chu, giáo viên viết văn cũng có nhiều thuận lợi bởi được cung cấp các kiến thức nền tảng trong trường đại học, các vấn đề về học thuật và tiếp cận nhiều tác phẩm văn chương trong nước và thế giới nên khi viết văn, nắm chắc được các vấn đề lý thuyết, kỹ thuật, nghệ thuật viết. Trong quá trình giảng dạy, đối tượng nghiên cứu chính là các tác giả, tác phẩm văn học nên có nhiều thời gian để đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, phát triển vốn đọc. Đặc biệt chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 với nhiều đổi mới trong việc dạy học nên có cơ hội để đưa các tác phẩm văn học đương đại vào giảng dạy, tham khảo, ra đề khiến cho khoảng cách giữa văn học và văn học trong nhà trường rút ngắn lại. Học sinh có hứng thú đọc nhiều tác phẩm ngoài sách giáo khoa. Ngoài ra Chương trình dạy học văn chú trọng dạy học theo thể loại nên học sinh học xong có thể tập sáng tác văn học. Cô và trò có thể có những ý tưởng viết và trao đổi cùng nhau.
Tuy vậy chương trình văn học trong nhà trường dù đã đổi mới nhưng vẫn mang tính mô phạm, nhiều khi khiến bản thân cảm thấy bị hạn chế, gò bó trong những sáng tạo văn chương. Việc giảng dạy theo thời khóa biểu và lịch công tác của trường, sở giáo dục cũng khiến giáo viên viết văn khó sắp xếp thời gian cho những hoạt động văn chương của mình. Đây là điều mà với bản thân Nguyệt Chu trăn trở nhất. Vì nhiều khi phải ưu tiên công việc chính nên dù rất tiếc cũng ko thể tham gia các buổi tọa đàm, hội thảo hay trại viết, đánh mất những cơ hội để học hỏi, mở mang giao lưu với các bạn viết.
Dẫu vậy, Nguyệt Chu cũng đã có 4 tập truyện ngắn được phát hành và có cho mình những giải thưởng quan trọng như: Giải Tư cuộc thi “Lửa Mới” do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức năm 2019; giải Nhì cuộc thi sáng tác văn học “Cảnh sát cơ động - lá chắn thép bảo vệ bình yên cuộc sống” do Bộ Công an tổ chức năm 2022; giải Nhất cuộc thi thơ và truyện ngắn tỉnh Bình Định năm 2024-2025… Chính những thành quả này đã giúp cho Nguyệt Chu cố gắng hơn nữa để dấn thân bền bỉ trong hành trình văn chương của mình.
|
Nhắc đến nhà văn xuất thân từ nghề giáo mà không nhắc đến Nguyễn Thị Kim Hòa là một thiếu sót. Cô gái Ninh Thuận này như một trường hợp điển hình của nỗ lực phi thường trong hành trình sống và viết. Chúng tôi hay gọi vui Hòa là “cô giáo không bục giảng” bởi Hòa không dạy ở một trường học nào hết. Lớp học nhỏ ở xóm Gò đã 20 năm nâng bước nhiều ước mơ của trẻ em nghèo xứ biển Phan Rang. Từ ban đầu chỉ 1 học sinh lớp 5 nhờ dạy kèm, sau đến các bạn học cấp 2 đến để Hòa phụ đạo thêm tiếng Anh. Cứ vậy mà lớp học cô giáo Hòa nằm bên con sông Dinh, dòng sông hiếm hoi của đất bán sa mạc vùng gió cát Ninh Thuận lặng lẽ đi qua 20 năm. Học trò ngày ấy gọi Hòa bằng chị 2, rồi thành cô 2, và sẽ đến lúc thành bà 2, như Hòa cười hiền chia sẻ. Dẫu vậy, lòng Hòa vẫn luôn trăn trở cho đứng đứa trẻ làng biển, vậy nên những năm gần đây Hòa mở thêm những nhóm học kĩ năng đọc và viết cho các em. Hoàn thiện không chỉ tri thức mà cả kĩ năng mềm để bước đường tương lai các em sẽ được trang bị đầy đủ nhất. Niềm vui của Hòa chính là nhìn các học trò mình ngày một trưởng thành. Có bạn lớn lên, lập gia đình và quay trở lại thăm Hòa. Cô giáo nhỏ của “lớp học cây Me” vẫn cần mẫn ngày ngày dẫu kỳ thực chưa một lần đứng trên bục giảng đúng nghĩa.
|
Vốn dĩ Hòa trải qua cơn bệnh hồi nhỏ, nên việc nỗ lực phấn đấu của Hòa trong cuộc sống và trong nghề viết là một hành trình không dễ dàng. Vậy mà, vừa làm cô giáo làng, vừa viết văn, Hòa đã nuôi sống được chính mình, giúp đỡ gia đình rất nhiều, cả những đứa học trò ngây thơ khó khăn đều có bàn tay hỗ trợ của Hòa. Cho đến bây giờ Hòa đã có hơn 15 đầu sách được in và hàng loạt giải thưởng đủ để khẳng định vị trí của mình trong làng văn như: giải Nhất cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 2013-2014; giải Nhất cuộc vận động sáng tác văn học thiếu nhi Việt Nam - Đan Mạch 2013-2015; giải C Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam 2015; giải Tư cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần 6 (2015-2018)… Hành trình sống và viết đầy nghị lực ấy đã giúp Hòa nhận được bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2015. Năm 2021 Nguyễn Thị Kim Hòa được tạp chí Forbes Việt Nam bình chọn 1 trong 20 phụ nữ Việt Nam truyền cảm hứng của năm. Năm 2022, Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam đã trao Giải thưởng Nhà văn nữ ấn tượng năm cho Hòa.
Khi một người vừa là nhà văn vừa là nhà giáo, họ có thể có sự nghiệp sáng tạo văn học được truyền cảm hứng từ kinh nghiệm giảng dạy, và cũng dùng kiến thức sư phạm để truyền đạt cho người đọc thông qua các tác phẩm văn chương. Sự kết hợp này tạo ra những tác phẩm sâu sắc về đời sống con người, giúp độc giả hiểu rõ hơn về những bài học thực tế trong cuộc đời này. Chính những yêu thương trong trái tim rung cảm đã lan tỏa sâu rộng và mạnh mẽ một trữ lượng đầy tích cực.