Sáng tác

Mây núi Thiên Thai - Truyện ngắn của Trần Thanh Cảnh

Trần Thanh Cảnh
Truyện
19:30 | 11/07/2024
Thiên Thai là ngọn núi duy nhất của cả vùng nam Kinh Bắc, bởi thế dân trong vùng rất tôn thờ ngọn núi này. Họ coi đó là núi thiêng.
aa

Hồi ấy tôi vừa ở lính ra.

Chưa biết làm gì. Chưa định đoạt gì cho quãng đời tiếp theo của mình. Tôi định bụng nghỉ ngơi ở quê với mẹ một thời gian lấy lại tinh thần, sau những năm tháng lính tráng quá gian nan trên miền biên viễn. Những năm tháng mà sau này nhiều lúc tôi nghĩ lại, không hiểu mình lấy đâu ra sức lực và ý chí để vượt qua...

Hàng ngày tôi giúp mẹ việc đồng áng. Sang cánh bãi cuốc vài thửa ruộng trồng rau màu. Đất phù sa sông Đuống mềm mát, những nhát cuốc ăn xuống phầm phập lật ra những tảng đất nâu non đều tăm tắp, trông ngon như những miếng gan lợn thái vát bày trên đĩa lòng sủ của mâm cỗ giỗ họ. Để phơi nắng vài hôm, lấy vồ đập bở tơi ra rồi đánh luống trồng cải, su hào, thì là, hành húng, rau thơm… những thức rau của mùa đông. Làm mấy thửa ruộng cánh bãi thật chẳng bõ bèn gì với sức lực của một thằng cựu lính vừa lăn lộn hết vác bê tông làm hầm trên cao điểm, đi chặt gỗ trên rừng, rồi lại đóng gạch để “xây kỷ niệm trung đoàn một cái nhà hội trường trước khi ra quân”! Đấy là lời Thiếu tá Trung đoàn trưởng khi tập hợp đám lính sắp hết nghĩa vụ lại, quán triệt. Không như thường lệ giao nhiệm vụ cho lính ông hay đanh giọng nhấn mạnh, luôn phải hoàn thành, cấm cãi. Lần này ông chỉ nhẹ nhàng đề nghị. Thế nhưng thằng lính nào cũng hiểu là, nếu không dựng được cái hội trường kia thì đừng có nghĩ đến chuyện cầm tờ quyết định ra quân. Mà cái quyết định đó, là niềm ước mơ, là mục tiêu phấn đấu của bọn lính nghĩa vụ khi bắt đầu vào quân ngũ. Chẳng thế mà câu ca dao đầu lưỡi của lính tráng khi ấy là: “Cầm vàng còn sợ vàng rơi/ Cầm tờ quyết định đời đời ấm no”!

Mà về nhà là ấm no thật.

Bữa cơm đầu tiên ở nhà chỉ có rau muống luộc chấm tương cùng vài miếng cà nén, tôi đả hết bay nồi cơm mẹ nấu. Mẹ tôi hầu như chỉ ngồi nhìn tôi ăn. Có lúc len lén đưa tay chùi mặt, không biết là chùi mồ hôi do nóng hay là nước mắt nữa. Tôi vốn vô tâm nên chẳng nghĩ nhiều. Ăn xong tôi bảo mẹ: “Cứ để bát đũa đấy lát nữa con rửa”. Rồi đến cái giường quen thuộc nằm ngả ra, giang rộng chân tay khoan khoái. Mấy năm ngủ lán, ngủ hầm, ngủ trong hang hốc đá, ngủ trong bụi sim mua…, thậm chí ngủ ngồi: lưng vẫn đeo ba lô, ôm súng dựa vào ta luy đèo mà ngủ. Những lúc ấy tôi nhớ da diết cái giường tre ở quê nhà mà tôi đã ngủ với bố mình suốt thời niên thiếu. Êm ái và dễ chịu. Nhất là vào mùa đông, bố tôi thường trải ổ bằng những nắm rơm nếp rũ sạch. Ấm áp và thơm nức. Có một đêm đời lính tôi đã phải ngủ một mình trong cái lán, cạnh khe suối đá trong mưa rừng rét cóng. Cô lạnh. Tôi thầm mong khi nào hết nghĩa vụ được về nhà, sẽ nằm thật thoải mái trên cái giường trải ổ của bố năm xưa. Ngủ thật lâu. Ngủ thật sâu. Ngủ một giấc chán chê đến bao giờ không ngủ được nữa thì thôi…

***

Làng tôi là một ngôi làng cổ xứ Kinh Bắc.

Làng bên cạnh con sông Đuống vốn còn có tên chữ là sông Thiên Đức. Xuôi theo sông Đuống về phía hạ lưu khoảng 4-5 cây số gì đấy là núi Thiên Thai. Chính xác hơn, đó là một dãy núi, gồm chín ngọn lô nhô liền nhau như một con rồng đang uốn khúc lao về phía biển. Có lẽ con rồng này bị lạc nên cô đơn lắm. Nó muốn theo cả đàn rồng trong huyền thoại đã đỗ xuống vịnh biển Hạ Long cách đó không bao xa. Thiên Thai là ngọn núi duy nhất của cả vùng nam Kinh Bắc, bởi thế dân trong vùng rất tôn thờ ngọn núi này. Họ coi đó là núi thiêng. Nên khi an táng cho người thân, thường người ta để phần mộ quay mặt hướng về núi Thiên Thai. Ừ, nhân sinh ai chẳng muốn cuộc sống nếu có sau này của mình ở kiếp sau, được thanh nhàn vi vút trên cõi thiên thai cơ chứ…

Dịp ấy, cứ chiều chiều xong việc đồng áng tôi lại tắm rửa sạch sẽ rồi lên đê ngồi hóng mát, ngắm cảnh. Con đê sông chạy qua đầu làng tôi khá to, một phần lưng lửng trên được trải đá sỏi làm đường giao thông. Trên cùng là một bờ đất khá to đắp cao vượt hẳn lên gọi là con trạch, để ngăn nước những năm lũ lớn. Con trạch này được trồng cỏ xung quanh. Đất đắp con trạch này vốn là phù sa sông nên cỏ mọc tốt tươi, rất dày. Những đám cỏ gừng, cỏ chân gà, cỏ may, cỏ mật đan bện xoắn xuýt vào nhau thành ra như một cái nệm êm ái, nằm ngồi đều sạch sẽ. Thời bé, mỗi tối mùa hè nóng bức bọn trẻ con chúng tôi thường kéo nhau lên đây hóng mát và chơi trốn tìm, đánh trận giả. Nhưng bấy giờ tôi đã lớn, đã chán hẳn những cái trò rồng rắn kéo đàn kéo lũ đi quậy phá xung quanh từ lâu rồi. Vả lại, các ông bạn thời thơ ấu ấy đứa thì ra khỏi làng kiếm ăn, đứa thì lấy vợ sinh con tối ngày cắm mặt vào với ruộng đồng gà lợn. Làm gì còn thằng nào rỗi rãi chiều chiều lên đê hóng mát như tôi nữa. Tôi đâm ra thành một kẻ cô đơn ngay trong chính ngôi làng của mình.

Tôi cứ ngồi trên đê trong ánh chiều đang buông, nhìn về núi Thiên Thai với chín đỉnh nhấp nhô xanh mờ. Hồi mùa hè năm lớp 9, năm thứ 2 của cấp 3 phổ thông khi ấy, một buổi sáng tôi và vài đứa bạn nữa đã rủ nhau đạp xe vào núi chơi. Bọn tôi gửi xe đạp ở nhà dân dưới chân núi rồi cùng nhau leo lên đỉnh ngồi ngắm. Thực là một quang cảnh tuyệt diệu. Dòng sông Đuống đang mùa nước lũ đỏ rực phù sa, trải dài mênh mang như một dải lụa đào giữa hai bên cánh bãi mướt mát ngô dâu. Sát hai bên bờ nước là những rặng tre xanh lả lướt như muốn buông mình xuôi theo dòng chảy. Những con thuyền từ biển lừng lững giương cánh buồm nâu khổng lồ ngược nước tiến về phía thượng nguồn. Dòng nước, rặng tre, con thuyền, tất cả đều chan hòa trong nắng hè chói chang. Nước lấp lánh, muôn ngàn lá tre cũng xôn xao lấp lánh, như cùng chào đón những con thuyền buồm, những chàng lực sĩ miền biển đang mang sản vật về miền châu thổ. Ngồi trên đỉnh núi cao, gió lộng mát rượi khiến cho cả bọn học sinh chúng tôi mê man mụ mẫm trước cảnh thiên nhiên đẹp đẽ của quê hương bày ra trước mắt. Một bức tranh non sông cẩm tú. Đẹp không kém gì bức tranh quê trong thơ của nữ sĩ sông Thương đã vẽ nên bằng ngôn từ mà chúng tôi vẫn từng tấm tắc. Lặng đi. Không đứa nào thốt nên lời. Chúng tôi cứ ngồi miên man ngắm, tưởng như hồn mình đang lững lờ trôi trên chiếc thuyền buồm nâu kia đến những miền xa lạ, hoặc được xuôi theo dòng nước lấp lánh mà về biển. Đến lúc thằng bạn háu đói nhất kêu lên: “Trưa rồi, về ăn cơm thôi!”, cả bọn mới sực tỉnh mà kéo nhau xuống núi. Trên đường về nhà, có vô vàn kế hoạch được xôn xao vạch ra cho mùa hè năm sau, mùa hè cuối cùng của đời học sinh phổ thông, với núi Thiên Thai. Chúng tôi sẽ đi chơi, sẽ tổ chức picnic qua đêm, sẽ đốt lửa trại...

Nhưng hỡi ôi, tất cả những dự định nhỏ nhoi ấy sau này đều không thành, đều nổ tung như bong bóng xà phòng không để lại dấu tích gì dưới ánh mặt trời. Mùa hè năm 1978, chúng tôi tốt nghiệp cấp 3, thi đại học vừa xong chưa kịp biết kết quả thì có một đợt tuyển quân cực kỳ lớn diễn ra. Đất nước chuẩn bị bước vào hai cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới. Bọn chúng tôi, những thằng trai trẻ 17-18 tuổi chẳng có cách nào thoát ra được cái tấm lưới định mệnh ấy. Cái tấm lưới đã vung lên, chụp xuống cả một thế hệ sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trong giày vò khốn khổ vì đói khát của thời hậu chiến. Và tới lượt mình, chúng tôi lại bị ấn vào, cách này hay cách khác, trước hay sau vào những cuộc chiến mà thực sự nhiều lúc không hiểu nổi, vì sao lại có cuộc chiến này? Cho đến mãi sau này chúng tôi vẫn đau đớn tự vấn: đất nước vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh, vết thương chưa lành, sao chúng ta cứ phải đánh nhau tiếp? Thời ấy có một câu chuyện tiếu lâm lan truyền: khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế của khối các nước xã hội chủ nghĩa, họp phân công lao động: Liên Xô sản xuất máy bay, tên lửa, Đức sản xuất ô tô, Ba Lan đóng tàu biển, Hungari sản xuất thuốc chữa bệnh…còn Việt Nam, tìm mãi không ra chuyên môn, thôi, phân công nó chuyên đi đánh nhau! Nghe mà đau đớn nhưng lại có một phần lớn sự thật khi đó, không cãi được! Bản thân tôi, nhiều lúc nằm trên hầm hào điểm tựa nhìn về phía bên kia biên giới mà lòng vẫn đau đáu câu hỏi: tại sao cứ nhất thiết phải là đánh nhau mới được? Lẽ nào định mệnh của dân tộc này, đất nước này là những cuộc chiến tranh mãi không bao giờ dứt sao?

Cho đến khi ra quân, được ngồi trên con đê đầu làng ngắm cảnh thanh bình của quê hương, trong đầu tôi thỉnh thoảng vẫn bật ra những câu hỏi chưa có lời giải ấy. Tại sao tôi lại phải hoang phí những năm tháng tuổi trẻ đẹp đẽ nhất của đời mình trên miền rừng xanh núi đỏ kia? Không có câu trả lời. Mà làng xóm thì vẫn âm u miệt mài trong cảnh nghèo nàn cố hữu. Những rặng tre quanh làng như vàng vọt hơn. Đầm sen cuối thu sắp tàn lá úa xám, đâu đó hiếm hoi mới thấy một bông sen hồng mờ lẻ loi cô độc. Xa xa cánh đồng Ngo trải dài tít tắp, những làn khói xanh lam chiều đang từ từ bốc lên báo hiệu một ngày sắp tận. Một hồi chuông chùa thong thả ngân lên giọt vào không trung êm ả những tiếng boong boong… buồn tê tái.

Bỗng tôi giật mình nhìn xuống con đường sỏi dưới chân bờ đê trạch nơi tôi ngồi. Một tiếng “xoạch” vừa vang lên lạc lõng, kéo tôi ra khỏi dòng suy tư: một cô gái trẻ đạp xe vừa tới đó thì bị tuột xích. Cô lúng túng xuống xe và hoang mang đứng nhìn. Hầu như tuyệt vọng, không biết làm gì. Như một phản xạ tự nhiên, tôi nhảy xuống đường, đến gần hỏi: “Xe em làm sao thế?”

Cô gái xoay đầu lại nhìn tôi. Trong một ksana tôi bỗng thấy hồn vía mình chao đảo bay vút lên không trung: một khuôn mặt thiếu nữ tuyệt đẹp! Đôi môi đỏ thắm, he hé như định nói điều gì. Đôi mắt đen thẳm mở to ngơ ngác, lúng túng. Đôi má thanh tân với làn da mịn màng trắng hồng. Nàng mặc một chiếc áo sơ mi trắng cổ lá sen kiểu cách thời ấy. Nhưng cái màu trắng của áo trong ánh chiều hôm nhập nhoạng cứ rực lên tỏa ra một thứ ánh sáng mơ hồ thần bí. Nàng cũng mặc một chiếc quần lụa đen mềm mại như các cô gái làng tôi, gió nam từ dưới đầm sen thổi lên dào dạt, những mảng lụa đen uốn éo ôm lấy phần thân dưới của nàng như muốn kín đáo khoe ra những gì thầm kín. Từ người nàng tỏa ra một làn hương thanh tân kỳ diệu. Tất cả những cái đó hòa quyện vào nhau khiến một kẻ khá dạn dĩ như tôi thốt nhiên mê mẩn. Đầu óc tôi như bị một tia sét đánh thẳng vào làm cho tê liệt. Ngây ngô. Nhưng rồi tôi vẫn nhớ được mình là đàn ông con trai, phải có nghĩa vụ trợ giúp con gái trong những lúc như thế này. Không kịp để cho nàng trả lời, tôi ngồi thụp xuống cạnh xe xem xét, rồi ngẩng lên: “Xe em bị đứt xích rồi”. “Thế em biết làm sao bây giờ?”. “Nhà em ở đâu?”. “Em ở trong núi”. “Để anh xem có chữa tạm được không.”

Tôi ngả chiếc xe ra ngay vệ đường. Lần xem kỹ cái xích vừa tuột ra thõng thượt. Thật may, nó bị bật khóa xích chứ không phải đứt hẳn như tôi nghĩ lúc đầu. Tôi kiếm một hòn đá phẳng để kê và một hòn đá to để gõ, những thứ này vốn có đầy trên mặt đường. Gá cái khóa xích vào, kê lên hòn đá phẳng rồi đóng mạnh vài cú, cái xích trở lại như cũ. Tôi lắp lại xích cho cô gái: “Không có dụng cụ nên anh không thể lắp chắc cho em. Em đạp xe nhẹ nhàng thôi, nếu không dễ bị bung khóa lần nữa”. Cô gái nhìn tôi đầy thán phục: “Sao anh tài thế, tay không mà cũng làm được vậy!”. Tôi cười: “Lính tráng bọn anh quen biến không thành có mà!”. “Ô. Anh là bộ đội à?” “Ừ. Anh vừa ra quân”. Cô gái nhìn tôi trìu mến. Tôi nhìn lại cô mê man. Chúng tôi đắm đuối nhìn nhau. Trong ánh nhập nhoạng của chiều thu vừa buông, trên con đường đê vắng vẻ, tôi thấy cô như một nàng tiên nữ trong truyền thuyết. Xinh đẹp óng ả trong chiếc sơ mi trắng và chiếc quần lụa đen. Sự hấp dẫn nữ tính cứ tràn trề tỏa ra. Tôi ngây ra nhìn nàng mà không biết nói gì thêm. Nàng cũng cứ một tay cầm ghi đông xe, một tay vân vê tà áo cúi xuống, chưa muốn lên xe. Bỗng nàng ngẩng đầu lên nhìn tôi: “Thế nhỡ em đi một lúc nữa mà xe lại hỏng thì làm thế nào?”. Tôi như kẻ chết đuối vớ được cọc, ngỏ lời ngay: “Để anh đạp xe đưa em về nhà nhé?”. “Chốc nữa anh về bằng gì?”. “Anh sẽ đi bộ theo đê về.” “Ai lại thế.” “Ồ. Em chưa biết lính tráng bọn anh trên biên giới định nghĩa thế nào là bộ đội hả?”. “Thế nào?”. “Bộ đội: là một đội những người đi bộ!”. “Hay thế!”. “Bởi vậy, đi bộ một ngày vài chục cây số với bọn anh là chuyện thường mà.”

Thế là chúng tôi đạp xe đèo nhau đi trên con đường đê vắng, trong ánh sáng nhập nhoạng của buổi tối trăng chưa lên. Vừa đi chuyện trò linh tinh nhưng lại cảm thấy vô cùng ăn ý. Những câu chuyện của trai chưa vợ gái chưa chồng tán tỉnh nhau thật sự là vu vơ không đầu không cuối. Nhưng có cần gì nhiều lắm đâu, khi người ta trẻ, người ta nhìn thấy nhau trong một ksana định mệnh hầu như mọi việc đã xong rồi. Nên nhiều khi những rạo rực nghĩ suy của trái tim khối óc cũng chẳng cần thốt ra bằng lời. Mà bằng tâm tưởng hay là một cái thứ gì gọi là linh cảm hay thần giao cách cảm như người ta vẫn nói. Vẫn đủ để cảm. Đủ để hiểu nhau. Những câu chuyện vu vơ khiến chúng tôi trở nên thân thiết hơn. Lúc ấy tôi chỉ mong con đường đê mấy cây số từ làng tôi vào núi Thiên Thai dài ra bất tận. Nàng kín đáo ngồi xích vào gần tôi hơn, cánh tay và bờ vai mềm mại chạm sát vào lưng. Thỉnh thoảng những sợi tóc tơ thơm nức hương trinh nữ của nàng phất phơ vào cổ gáy tạo nên một cảm giác khó tả. Thật lạ kỳ, trên con đường đê mọi khi vẫn có ô tô, xe máy, xe đạp, xe bò hay người đi bộ qua lại. Thế nhưng tối hôm đó lại hoàn toàn vắng lặng. Chỉ có hai chúng tôi đạp xe và ríu ran cùng nhau. Chúng tôi như trôi đi trong một vũ trụ hoàn toàn riêng biệt…

***

Hồi ấy nước mình đang trong cơn cùng cực của đổ vỡ kinh tế. Những quyết sách về “giá - lương - tiền” đã dìm cả nền kinh tế đất nước vốn đang điêu đứng vì chiến tranh, vì cấm vận chìm sâu vào suy thoái. Sản xuất đình đốn. Đói kém. Thất nghiệp. Một màu u ám bi quan tuyệt vọng bao trùm khắp nơi. Tôi cầm quyết định ra quân vào đúng khi ấy. Định về làng nghỉ ngơi vài bữa rồi tính lên tỉnh đội xin chuyển ngành sang một chỗ nào đó kiếm ăn, chứ không thể ở lại làng cuốc ruộng cho đến mạt đời được. Đi khỏi cái lũy tre xanh, đó là lời trăn trối của bố tôi nhắn lại trước khi chết, lúc tôi còn trong quân ngũ. Tôi dự định sẽ lên chỗ người quen của bố là bác Thành trong tỉnh đội để nhờ đổi quyết định, từ xuất ngũ sang chuyển ngành.

Chỉ về làng vài hôm mà tôi lập tức “có da có thịt ngay”, đó là lời mẹ tôi nói vậy. Bởi đang ăn cơm gạo hẩm với cá khô mục trên biên giới, về quê ăn cơm gạo mới thơm nức, canh rau đầy đủ. Tuy không có thịt thà thức ăn bổ dưỡng gì nhiều nhưng cá tôm ngoài đồng, đầm hồ cũng khá dễ kiếm nên tôi mau chóng lấy lại sức vóc hồi xưa. Khi đó tôi có thể chạy đá bóng sân tiêu chuẩn cả buổi chiều, hay bơi vượt qua sông Đuống sang bên bãi cát Hán Đà nằm chơi một lúc rồi lại bơi về. Tôi lại thấy mình tràn trề sức lực.

Nên tối ấy dù có cố tình đạp chậm nhất có thể, khi trăng lên tôi cũng đưa nàng về đến chân núi Thiên Thai. Lúc đi đường, thấy tôi cứ nhẩn nha đạp và mải chuyện trò bốc phét huyên thuyên - thằng con trai nào bên gái đẹp không huyên thuyên bốc phét cơ chứ? - nàng bảo tôi: “Anh cố tình đi chậm đấy à?”. “Em nói thế oan anh! Đi nhanh, đạp căng xe bung xích lần nữa thì nửa đêm về đến nhà!”. “Nửa đêm thì sao?”. “À. Là em nói đấy nhé!”. “Nói thì sao?”. “Thì…”. Lợi dụng đêm tối, tôi buông một tay, vòng ra sau lưng định nhéo nàng một cái, muốn vào đâu thì vào! Nhưng dường như nàng đã đoán trước được hành động, túm ngay lấy bàn tay tôi. Tôi bèn nắm lấy tay nàng. Thế là chúng tôi nắm tay nhau. Lồng chặt. Đan khít. Râm ran. Nóng hổi. Một lát nàng bảo: “Thôi. Buông ra mà lái xe đi, không lại lao cả hai xuống đầm sen bây giờ!”. “Lao thì sao?”. Tôi tinh nghịch đai lại lời nàng. Nàng đưa tay nhéo một cái khá đau vào mạng sườn. Tôi nhổm người trên yên xe, vờ rú như là đau đớn lắm. Nàng tưởng tôi đau thật bèn xuýt xoa xin lỗi và xoa xoa bàn tay vào chỗ vừa nhéo. Tôi mê đi vì khoái trá. Thật sự đời tôi cho đến lúc ấy và rồi mãi về sau này cũng vậy, chưa bao giờ thấy bàn tay con gái nào mềm mại, ấm áp đến vậy. Tôi cứ bồng bềnh như trong mơ, đạp xe trên con đường đê lổm nhổm những đá sỏi mà cảm thấy như đang lái cỗ xe mây chở một nàng tiên trong truyền thuyết.

Đến chân núi, cạnh con đường mòn nhỏ đi lên đỉnh, nàng bảo dừng lại, nhún xuống khỏi xe: “Đến rồi anh. Nhà em trên đỉnh núi cơ. Để em gửi tạm xe vào nhà bà bác, mai xuống lấy đi chữa.”

Nàng đón ngay lấy ghi đông xe, dắt đi thẳng vào một khu vườn nhỏ ven đường cạnh chân núi, bên trong thấp thoáng có ngôi nhà. Vừa đi nàng vừa ngoái lại nói: “Đứng đây đợi em một chút”.

Tôi đứng vẩn vơ ở chân núi. Lúc ấy trăng vừa lên khỏi đỉnh Thiên Thai. Trăng cuối thu tỏa những ánh dịu dàng như sữa tưới xuống triền núi cỏ cây. Cỏ cây được ánh trăng bạc chiếu xuống như đẫm ướt một thứ nước thần kỳ, hân hoan đón mừng. Lá lấp lánh ánh bạc xôn xao như múa. Rất nhanh chóng, nàng quay ra đến bên tôi, mỉm cười: “Anh đã đưa em đến đây thì phải đưa cho trót. Đưa em lên tận nhà nhé?”. “Dĩ nhiên! Đó là trách nhiệm bảo vệ nhân dân của người lính!”. Nàng nhìn tôi có vẻ gì đó rất lạ. Như là tinh quái. Hàm răng trắng nhỏ đều tăm tắp he hé nở giữa đôi môi đỏ hồng thanh tân. Tủm tỉm. Ánh trăng chiếu vào khiến cho cả khuôn mặt nàng sáng lên rờ rỡ. Đẹp như một thiên thần. Tôi thầm nghĩ, giá lúc này nàng có bảo tôi phải đi cùng trời cuối đất với nàng tôi cũng đi luôn, chứ sá gì một quãng đường núi như một ví dụ nhỏ so với những con đèo chất ngất mà tôi từng phải vượt qua…

Nhưng bỗng nàng chiếu thẳng ánh mắt vào tôi. Cứ như là đắm đuối. Dạn dĩ. Đong đưa. Lả lơi sao đó. Nhưng lúc đó tôi còn hồn vía đâu để mà nhận xét? Giọng nàng mềm đi, nghe như hơi gió thoảng, thì thào bên tai: “Nhưng mà em mỏi, không leo núi được, anh phải cõng em cơ!”

Tôi nghe mà đờ đẫn hết người. Lúc đợi nàng đi gửi xe, tôi đang tính kế xem chia tay kiểu gì. Cầm tay? Ôm? Hôn? Và xxx…Nếu cứ thế mà chia tay suông, rồi lóc cóc đi bộ theo đường đê về nhà ngủ thì uổng quá. Vả lại nàng cũng đã thể hiện vẻ tình tứ với tôi mà. Tôi định bụng sẽ phải thử, biết đâu…

***

Hồi ở lính, đại đội tôi có thằng Dũng cực kỳ mê gái.

Có thể gọi là mê gái nhất trung đoàn nữa kia! Thằng cha này nguyên là công tử bột phố Hòe Nhai, Hà Nội. Đẹp trai, đàn giỏi hát hay, nó tán gái thì thôi rồi! Hầu như cứ mở lời cưa cẩm em nào là em ấy đổ. Là được “đánh nhắm” tơi bời. Nhiều đêm nằm nghe nó đi tán gái về, kể lại đầu đuôi chiến tích cưa cẩm mà cả đại đội không thằng nào ngủ được, chim dựng đứng hết lên như dàn cối 82 chuẩn bị khai hỏa! Ông Chu Văn Yên, Thượng úy đại đội trưởng ngủ phòng riêng đầu hồi phải quát tướng lên: “Thằng Dũng có im mồm mà ngủ đi không! Mày làm tao cũng muốn luôn đêm nay phi lên tàu về tranh thủ làm vài phát cấp tập đây!”. Ông đại đội trưởng này năm đó ngoài ba mươi, mới cưới vợ được vài năm, hồi đơn vị còn ở tuyến dưới. Chiều thứ bảy Thượng úy Yên tranh thủ đạp xe mấy chục ki lô mét đường đất đỏ về thăm vợ. Chiều chủ nhật lại đạp xe lên.

Một hôm, ngài đạp xe đến gần doanh trại, mệt quá không đi nổi nữa, lăn cả người lẫn xe ra vệ cỏ bên đường nằm thở dốc! Thì cảnh lính tráng xa nhà, vợ mới, cả tháng mới được gặp nên lục sục suốt đêm. Đến đầu chiều ba lô buộc lên xe đạp rồi, còn lôi vợ vào buồng làm cố thêm nháy nữa. Trời nắng, đường xấu, người kiệt lực… Về gần đến đơn vị, nhìn thấy doanh trại rồi mà không cố nổi. Thượng úy Yên rút khẩu K54 vẫn đeo bên hông, nhằm về phía doanh trại chỉ thiên hai phát: “Pằng, pằng”.! Lính tráng nghe tiếng súng cắp AK ào ra. Thượng úy Yên thều thào: “Khiêng tao về doanh trại!”

Không biết có phải “quan nào lính ấy” không mà đại đội tôi nổi tiếng nhiều tay mê gái, tán thành thần. Các em gái dân tộc, nữ giáo viên cắm bản, gái công nhân lâm trường trồng rừng gần đó “chết” như ngả rạ… Nhưng có một cô nàng người Tày mãi trong bản Suối Am, cách đơn vị tôi độ 20 km đường rừng ngược về phía bắc, thằng Dũng gặp ở phiên chợ Đồng Mỏ tán mãi không được. Tán tỉnh nói năng kiểu gì nàng chỉ mỉm cười bẽn lẽn rồi chúi mặt vào lưng đám bạn. Nhưng thỉnh thoảng lại liếc Dũng một cái sắc như dao cau. Mà mắt nàng đen láy, lông mi dài đen rợp hiển hiện trên khuôn mặt đẹp như tiên sa khiến Dũng càng điêu đứng, quyết tán bằng được.

Hôm ấy phiên chợ, Dũng ta xin đại đội trưởng Yên cho nghỉ một ngày, mò ra tìm bằng được, tặng quà tán tỉnh sao đó nàng bằng lòng cho tan chợ đi cùng về nhà ở Suối Am chơi. Dũng đi từ sớm hôm trước đến hai giờ sáng hôm sau mới mò về đại đội, cậy liếp chỗ tôi nằm thì thào: “Còn gì ăn không tao đói quá!”. May cho nó là bữa cơm tối không biết nghĩ thế nào, tôi lại lấy phần cơm vào cái xoong quân dụng nhỏ để trên giá ba lô, đậy lại. Tôi mở liếp cho nó vào. Nó cứ thế ngồi bốc cơm bằng tay trong nồi mà nhai nuốt ngon lành, không cần phải nước canh hay mắm muối gì. Mà cũng chẳng có mà đòi, còn cơm nguội là may lắm rồi! Thằng Dũng vét hết hạt cơm cuối cùng, rồi nằm lăn ra sạp nứa cạnh tôi: “Khổ vì gái mày ạ! Tán tỉnh ròng rã suốt mấy chục cây số đường rừng, vào tận nhà nịnh bố bản, hứa hẹn các kiểu. Lừa lừa mang con gái bố ra rừng “đóng” được một phát. Rồi đi bộ mấy chục cây số trong đêm về đây. Đói hoa mắt! Chẳng may mà gặp thám báo sơn cước thì chỉ có nước chịu chết! Thật đúng không cái dại nào như cái dại nào…”.

Mãi sau này, trên bước đường đời, tôi có gặp một tay nhà thơ lãng tử đất kinh kỳ. Tay này cũng dân phố cổ nhưng không biết Dũng Hòe Nhai, đọc cho tôi nghe câu thơ:

Hội nào rồi cũng sẽ tan

Riêng khô-vi-lốp ngày càng đông hơn!(1)

tôi chợt nhớ đến thằng Dũng Hòe Nhai; nó thật xứng đáng là “chủ tịch hội khổ - vì - gái” của quân đoàn phía bắc khi ấy!

Nhưng đó là chuyện sau này. Còn lúc ấy, ở chân núi Thiên Thai nghe nàng nói vậy, tôi tức thì xoay lưng quỳ ngay trước mặt nàng, cất lời như một tráng sĩ trong phim cổ châu Âu: “Mời em!”.

***

Nàng sà tới quàng tay vào cổ tôi.

Đầu đặt bên vai tôi, ghé sát. Má kề má. Những lọn tóc mềm mại thơm nức xõa xuống, phủ lên vai lên ngực tôi. Thân trên của nàng áp chặt vào lưng tôi. Nóng hổi. Choáng váng. Tôi bủn rủn toàn thân, cơ hồ tưởng không đứng lên nổi. Nhưng tôi nghiến răng lại, hai tay vòng ra sau bê đùi nàng xốc dậy. Tôi kiên quyết không thể để mất cơ hội ngàn năm có một này. Cặp đùi rắn chắc của nàng quặp chặt vào hông tôi, thúc giục. Như tôi đã kể, nàng mặc một chiếc quần lụa đen giống các cô gái quê tôi thủa ấy. Cái quần vải lụa mềm mát mong manh. Bàn tay tôi chạm vào lớp vải lụa như hư như thực, bên trong là cặp đùi rắn chắc của nàng. Mê ly. Đến lúc ấy tôi mới cảm nhận được là cái quần vải lụa đen của phụ nữ quê tôi mới hay ho làm sao; nó rất kín đáo trước mọi ánh mắt soi mói, nhưng lại vô cùng gợi cảm mỗi khi được đặt bàn tay vào. Hầu như là sự tiếp xúc thân thể thật sự chứ không còn ngăn cách nào. Khi tôi vòng tay bê lấy đùi nàng đứng lên, tôi thấy lan khắp toàn thân mình một cảm giác thật lạ lùng. Êm ái. Nhẹ bỗng. Nhưng lại như có cái gì vô hình trì níu, gắn chặt vào nhau. Tôi nhún mình mang hết sức lực tinh thần của tuổi trẻ bước lên bậc đá. Và tôi đi lên núi với nàng trên lưng. Không. Không phải là cuộc đi bộ leo núi như tôi vẫn thường trải qua trong thời lính với bê tông, gỗ, đá trên vai. Mà trên lưng tôi là một người con gái đẹp mê hồn, thân thể nóng hổi áp sát sàn sạt. Áp sát đến mức tôi cảm nhận được rõ ràng từng bộ phận thân thể của nàng đang đặt trọn vào tôi. Thấy đôi đầu vú bé xíu răn rắn gại gại vào lưng tôi mỗi bước đi. Thấy cái phần thân thể thiếu nữ mê hoặc huyền bí mềm mại và nóng rực áp sát vào eo lưng tôi. Sát đến nỗi tôi hầu như cảm nhận được cả đâu là gò đồi bờ bãi suối khe, đâu là miền cỏ xuân tơ êm ái đang gọi mời. Đến lúc ấy tôi đã là một thằng con trai dạn dĩ, có thể gọi là đàn ông trưởng thành được rồi. Mấy năm bộ đội, đóng quân ở khá nhiều nơi nên tôi đã kịp quen và yêu vài cô gái. Thì tuổi trẻ mà lại, ai lại để cuộc đời trôi đi phí phạm khi có cơ hội? Tuy không kết quả đâu vào đâu, nhưng cũng đem đến cho chúng tôi những niềm vui sống, chút an ủi lẫn nhau trong tháng năm mờ mịt tương lai một chút gì đó để mà hy vọng. Lắm lúc tôi nghĩ nếu không có những niềm vui trần thế, sự say mê khám phá xác thịt lẫn nhau của tuổi trẻ mà đấng cao xanh ban cho như vậy, dám chắc cả lứa thanh niên nam nữ chúng tôi khi ấy đã lao xuống khe núi, nhảy xuống sông sâu hay kề súng vào mang tai mà kết thúc cuộc đời quá khốn khổ cho rồi. Buông mình vào trong những cuộc tình lãng đãng đấy tôi cũng được các nàng cống hiến cho những giây phút êm đềm thú vị mà thằng trai trẻ đang thèm khát. Tôi đã được các nàng cho biết mùi tình ái. Dĩ nhiên, tôi cũng đã cống hiến cho các nàng hết mình trong những mối tình rồi sẽ dang dở ấy. Dù khi bắt đầu với nhau, chúng tôi đều nói những lời có cánh về một tương lai mơ hồ nào đó. Nhưng cả hai, trong tiềm thức sâu xa đều âm thầm cảm nhận rồi nó sẽ dang dở. Nhưng niềm khao khát sống, sự hy vọng về một ngày mai sáng sủa hơn vẫn thôi thúc chúng tôi gắn vào nhau. Đó là sự thúc đẩy của bản năng hay sứ mệnh của Thượng đế trao cho cũng vậy. Hoặc như là một sự an ủi lẫn nhau. Nên khi bắt buộc phải chia tay do chuyển quân đi xa hay một lý do tương tự nào thế, chúng tôi cũng âm thầm tự hiểu. Và chẳng trách móc gì nhau nhiều. Đời là thế mà. Đời là những cuộc gặp gỡ rồi chia ly. Có điều, chia ly của cặp trai gái yêu nhau rồi xa nhau vì hoàn cảnh thường để lại trong nhau những cảm xúc thật sâu sắc khó phai. Những kỷ niệm. Những bộn bề lo toan của cuộc sống thường nhật có thể khiến những cảm xúc đó mờ đi. Thế nhưng gặp hoàn cảnh phù hợp, những cảm xúc đó lại trồi lên, hiện về mãnh liệt. Những kỷ niệm được sống dậy trong một hình hài nào đó. Và lúc này, với một thân thể thiếu nữ non tơ trên lưng, mọi cảm xúc về tình yêu trai gái đã có trong tôi bừng bừng sống dậy. Muốn nổ tung. Nhưng thật lạ kỳ, nếu như mọi lần trong hoàn cảnh này, tôi sẽ cõng nàng phi thẳng lên sườn đồi, lao vào một bãi cỏ hay bụi sim mua nào đó mà đè ra ngấu nghiến hôn hít, sẽ lấy hết sức mạnh của một thằng con trai ra mà khơi gợi đánh thức bản năng đàn bà của nàng. Nàng sẽ nhanh chóng nổi hứng lên đáp lại. Và chúng tôi sẽ quằn quại làm tình cùng nhau cả đêm trên đồi vắng, như khối lần đã từng. Thế mà không hiểu sao tối ấy, dù thèm muốn đến cực độ, nhưng tôi lại có cảm giác nàng thiếu nữ trên lưng tôi là một bông hoa đặc biệt không có ở trên đời này. Một bông hoa mang vẻ đẹp mong manh lung linh kỳ ảo đang he hé nở, rụt rè khoe sắc. Vẻ đẹp của những bông hoa hàm tiếu chỉ để ngắm nhìn, cảm nhận bằng các giác quan tinh tế của những tao nhân mặc khách chứ không dành cho kẻ phàm phu tục tử. Tôi vốn được trời ban cho đặc ân biết thưởng thức cái đẹp. Tôi thích ngắm núi sông sơn thủy hữu tình cùng hoa thơm cỏ lạ. Tôi đã từng đứng trên sườn núi cao vào mùa xuân biên giới mà mê đi trước những đồi đào, mận đang bung hoa như cảnh trên chốn bồng lai. Tôi lại đã từng học môn Thực vật ở trường đại học nên hiểu rằng, hoa thực chất nó chính là bộ phận sinh sản của cây. Hoa phải có sắc màu và hương thơm quyến rũ để cho các loài ong bướm đến giúp thực hiện chức năng thụ phấn sinh sản bảo tồn nói giống. Bảo tồn nòi giống là bản năng gốc của mọi loài mà Thượng đế ban cho. Con người cũng vậy. Vào mùa xuân của cuộc đời, người con gái nở bừng hương sắc như bông hoa mãn khai chờ đợi, mời gọi những trận ái ân gió táp mưa sa để mà kết trái. Để mà sinh con đẻ cái bảo tồn giống loài. Đó là bản năng. Bản năng đàn ông “ong bướm” gào réo trong tôi. Nhưng tôi lại cảm thấy nàng vẫn như một bông hoa hàm tiếu chưa mãn khai, nếu mình mà đè nàng ra sườn núi, mà ôm ấp hôn hít, mà vò xé và chiếm đoạt thì thật là một sự xúc phạm nghiêm trọng vẻ đẹp trong trắng ngây thơ như thần tiên vậy. Nên tôi nghiến răng lại đi tiếp, nhẫn nại bước từng bậc lên núi. Vừa đi vừa cảm nhận thân thể nàng đang nóng rực run rẩy như sóng trào trên lưng. Thân thể tôi cũng rung lên hầu như vô thức. Hoà nhịp. Rồi đến một lúc, tôi cảm thấy thân thể hai chúng tôi tan vào nhau, cùng rung lên trong niềm hoan lạc lạ lùng không sao tả nổi. Tôi bồng bềnh mơ màng như trên cõi thiên thai cực lạc. Tôi vẫn đi từng bước trên những bậc đá cổ với nàng trên lưng. Hình như không phải tôi đi, mà có một sức mạnh siêu nhiên nào đó đưa đỡ tôi bồng bềnh lướt trên từng bậc đá núi…

“Đến nhà em rồi, anh!”

Nàng vừa nói, vừa tuột khỏi lưng tôi thật nhanh.

Tôi như người đang ngủ mê, bỗng có một gáo nước lạnh tạt vào mặt. Đứng thẳng người lên, ngẩng đầu nhìn phía trước. Bàng hoàng.

***

Mẹ tôi bảo theo lời các cụ cao niên kể lại, ngày xưa trên núi Thiên Thai rừng rất rậm.

Nơi đó đã từng có hành cung của các nhà vua. Và một ngôi chùa của các bậc cao tăng bí ẩn tu tập suốt đời không xuống núi. Thời cuối Lý đầu Trần, thậm chí nơi đây còn là thành lũy, là bãi chiến trường xảy ra cuộc chiến sinh tử giữa hai gia tộc lừng lẫy Đại Việt khi ấy là Nguyễn Gia bên Phù Đổng và Đoàn Gia dưới Hải Đông kia. Các cụ từ xưa đã truyền lại là trên một trong chín đỉnh núi của dãy Thiên Thai ấy có một cái cửa hang bí ẩn. Cửa này không phải ai cũng thấy, là lối vào một hang ổ trong lòng núi. Ai chẳng may đi lạc vào vĩnh viễn không bao giờ thấy bóng nữa. Bởi sâu thẳm trong đó là nơi ở của một Hồ ly tinh tu luyện đã lâu năm, có phép thần thông biến hóa khôn lường. Những đêm trăng khuya trên núi, Hồ ly tinh thường hiện hình thành một cô gái đẹp đi dạo, rủ rê quyến rũ đàn ông và mang họ biệt tích vào trong hang ổ của mình. Không một ai sống sót trở về nên thực sự không ai biết cái hang ổ của Hồ ly tinh trong lòng núi thế nào. Dân quanh chân núi còn kể rằng, những đêm trời trong veo không mây, thốt nhiên thấy trăng tỏa ánh sáng lạnh như ánh bạc, từ trên đỉnh núi trong bỗng có tiếng hát cất lên mơ hồ, ai oán, thê lương, tình tứ. Tiếng hát trong vắt như dải tơ trời bay vút lên thinh không. Tất cả các bà vợ đều vội vàng quặp chặt lấy chồng, lấy tóc của mình phủ vào tai đấng lang quân, khiến cho họ không nghe thấy gì nữa. Bởi chỉ cần nghe thấy là tất cả đàn ông đều tự nhiên vùng dậy mà chạy thẳng lên núi, đi về phía có tiếng hát vẫn réo rắt mơ hồ đâu đây. Đi thẳng và không bao giờ trở về nữa.

Một đêm trăng thu cũng sáng lạnh như thế, sư cụ chùa làng tôi bỗng cho gọi tất cả đàn ông con trai các nhà ra chùa làm lễ. Cụ rung ba hồi chuông rồi gõ mõ đọc kinh “Kim cương”. Bọn đàn ông con trai nghe chẳng hiểu gì vì làng tôi vốn có lệ “trai ra đình gái lên chùa”. Chùa làng vốn gần như là chỗ sinh hoạt văn hóa tinh thần của giới phụ nữ, đàn ông chỉ ra đình bàn việc hầu như không lai vãng đến chùa. Nhưng đêm ấy ông nào cũng bị vợ hoặc mẹ kèm sát, bắt bằng được phải ra nghe kinh xong mới cho về đi ngủ. Ông nào cũng phải răm rắp đi theo. Động đến chuyện “tâm linh” là tự nhiên quyền lực của các bà trong nhà vượt hẳn lên, uy vũ ngay, không đùa được. Xong rồi sư cụ kể lại cho mọi người nghe về sự tích Hồ ly tinh trên núi Thiên Thai. Nguyên đó vốn là một con cáo chín đuôi trắng muốt tuyệt đẹp của bà Thiên hậu trên tầng trời thứ chín. Thiên hậu rất cưng con cáo này, đi đâu cũng cho theo cùng. Một hôm Thiên hoàng sang cung Thiên hoàng chơi, chẳng may dẫm vào một trong những cái đuôi của nó. Con cáo bị đau, nhảy xù lên cắn vào chân Thiên hoàng. Ngài bực tức, túm gáy con cáo quẳng qua cửa sổ thiên đình, quát: “Cút đi, đừng có bao giờ về trời nữa!”. Con cáo rơi xuống núi Thiên Thai hóa ra Hồ ly tinh ẩn mình trong đó. Vì nó bị Thiên hoàng nguyền rủa nên không thể về lại tầng trời thứ chín để sống cảnh thần tiên. Nhưng nó vẫn có nhiều phép thần thông biến hóa đã học được trên thiên đình. Nó lại để công tu luyện nhiều năm trong lòng núi nên càng có nhiều chiêu khôn lường. Thỉnh thoảng Hồ ly tinh lại rời khỏi nơi tu luyện của mình, thác thân thành một người đàn bà nhan sắc diễm lệ khuấy đảo cuộc đời cho vui. Triều vua Thiên Đức, Hồ ly tinh thác thân thành bà chúa Dâu nắm quyền triều chính nước Việt mãi rồi mới lại thoát thân về núi. Bảy trăm năm sau, Hồ ly tinh lại thác thân thành bà chúa Chè, cũng làm cho triều đình chúa Trịnh điêu đứng tan hoang một phen.

Theo như sư cụ đêm ấy nói, xem tinh tượng trên giời và điềm báo núi sông thì rất có thể Hồ ly tinh đang thu thập dương khí để thác thân khuấy đảo nhân gian lần nữa. Bởi để thác thân thành người thường, Hồ ly tinh phải cần dương khí của sáu mươi ba tay đàn ông khỏe mạnh. Hồ ly tinh sẽ biến thành một cô gái đẹp, rủ đàn ông lên núi Thiên Thai chơi, đưa họ vào hang ổ mê cung không lối thoát. Những người đàn ông ấy bị Hồ ly hút hết dương khí và chết rục vĩnh viễn trong tăm tối không lối thoát. Thế nên trong cả vùng Kinh Bắc từ mấy ngàn năm nay vẫn âm thầm lưu truyền những câu chuyện về các tay đàn ông phong lưu, bỗng một hôm lên núi Thiên Thai chơi rồi không bao giờ về nữa. Gia đình tìm kiếm mãi không thấy, đành lấy ngày các tay ấy ra đi làm ngày giỗ vậy. Theo như sư cụ kỳ này thể nào Hồ ly cũng xuất hiện. Sẽ có sự thác thân. Ở làng nào chưa biết nhưng chắc chắn sẽ lại có một “bà chúa” sinh ra ở vùng Kinh Bắc này. Làng nào Hồ ly tinh thác thân xuất hiện bà chúa, may hay rủi, vui hay buồn, lành hay dữ chưa biết nhưng chắc chắn không còn được bình an nữa. Sư cụ không muốn làng tôi mất đi vẻ thanh bình vốn là chỗ tu tập của mình nên bảo các tín nữ về lôi hết đàn ông con trai ra chùa, nghe đọc kinh “Kim cương” bảo vệ khỏi tinh Hồ ly tinh quyến rũ. Xong sư cụ lại phát cho mỗi nhà các đạo bùa, dặn về để dưới gối, mọi sự sẽ được an lành. Thảo nào tôi thấy bên trong tất cả các chiếc gối nhà tôi đều có một tờ giấy dó, trên viết những chữ ngoằn ngoèo và hình vẽ bí ẩn, được mẹ tôi gấp nhỏ giấu kỹ trong đó. Bọn đàn ông con trai đêm ấy ra khỏi chùa, được mẹ và vợ kèm chặt về thẳng nhà. Nhưng nhiều tay vẫn cố lén quay đầu nhìn về phía núi Thiên Thai đang sáng rờ rỡ một góc trời hy vọng, biết đâu lại thấy Hồ ly tinh huyền thoại hiện hình…

Đến thời tôi lớn lên thì đỉnh núi Thiên Thai trọc lông lốc. Không còn thông, không có xoài và cũng chẳng thấy bóng dáng lâu đài thành quách hay hang ổ của Hồ ly tinh đâu. Các cuộc biến động liên tiếp xảy ra trên đất này đã phá tan mọi thứ. Cây cối thì dân quanh vùng thiếu chất đốt bèn kéo nhau lên chặt phá, bòn mót dần đến lúc chỉ còn trơ thổ địa. Chỉ dưới chân núi, nơi có các khoảnh vườn của nhà dân sinh sống, họ trồng cây ăn trái như thị, mít, ổi, chay, bưởi... Trên đỉnh núi chỉ còn là những bãi sỏi cằn cỗi trơ trọi cùng những hòn đá lớn ngổn ngang. Ngày còn chưa đi lính, buổi trưa tôi đã nhiều lần đạp xe vào cái chợ dưới chân núi - có tên gọi luôn là chợ Núi, đón mẹ. Trong khi đợi mẹ tan chợ, tôi hay đạp xe loanh quanh vòng theo chân núi, thỉnh thoảng lại ngửa cổ nhìn lên đỉnh. Núi Thiên Thai thực ra gọi là “đồi” cũng được bởi thấp tịt mà, chưa đỉnh nào cao quá trăm mét. Nhưng vì cả vùng nam Kinh Bắc có mỗi dãy này nên dân trong vùng gọi là “núi” cho nâng cao vị thế quê hương thôi, chứ chín đỉnh núi Thiên Thai, đứng dưới chân cũng nhìn thấy rõ cả mặt người trên đó, có gì bí hiểm đâu…

Vậy mà giờ đây trước mắt tôi lại hiển hiện một lâu đài như trong trí tưởng tượng khi đọc những câu chuyện cổ tích. Một khu nhà cổ tòa ngang dãy dọc, mái ngói âm u trầm mặc đứng dưới ánh trăng. Ngoài tường rào là những bông hoa hồng leo rỡ ràng khoe sắc tỏa ra mùi hương thơm ngát. Tôi dụi mắt cố trấn tĩnh xem thực hay mơ. Rõ ràng là cả chín đỉnh núi Thiên Thai tôi đã đến, đã nhìn ngắm, đã dạo bước trên đó, sao lại có cả một tòa lâu đài to lớn nơi đây? Tôi đang cố tự suy tư để hiểu xem rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra thì cổng nhà chợt mở. Một người đàn ông nom quắc thước khỏe mạnh nhưng râu tóc bạc phơ, ăn mặc theo lối cổ ra đón. Ông nhìn tôi mỉm cười có vẻ thân thiện. Nàng nói như là giới thiệu: “Cha em”.

Ông khoát một cử chỉ mời tôi vào nhà. Tôi theo hai cha con nàng bước vào gian phòng khách. Gian phòng được thắp đèn nến và trang trí như trong một bộ phim cổ trang đã xem ở đâu đó tôi cố tranh thủ lục tìm trí nhớ mà không nổi. Tôi ngồi đối diện với cha nàng trên bộ tràng kỷ. Chưa biết mở lời thế nào để giải thích về cái sự đang đêm hôm khuya khoắt lại theo con gái người ta về nhà, nàng đã bưng ra một cái khay trên có hai tách trà. Hai tách trà kiểu cổ, hoa văn sơn son thếp vàng đẹp đẽ. Thật là một thứ cảnh giới lạ lùng trong những ngày nhân gian đang điêu đứng vì miếng ăn này. Nhẹ nhàng đặt trước mặt mỗi người một tách, nàng nhìn tôi, nhìn cha mỉm cười: “Mời cha, mời anh thưởng trà”.

Cha nàng vẫn không nói một lời, chỉ đưa tay ra ý mời. Tôi thực sự là một kẻ nhà quê, cho đến lúc ấy hoàn toàn không biết giới quý tộc xưa họ thưởng trà như thế nào. Quê tôi thường chỉ pha trà vào một cái ấm tích bằng sứ, rồi ủ trong giỏ tre để giữ nhiệt có trà nóng uống cả ngày, nhất là dịp mùa đông. Tôi nhìn cha nàng bưng lên, mở nắp tách trà, khẽ gạt rất nhẹ bên trên, dường như để những cánh trà nổi trên không tràn vào miệng khi uống. Ông nhấp một ngụm. Ngẩng đầu nhìn tôi: “Xin mời”.

Tôi nâng tách trà lên, mở nắp. Một mùi hương thơm kỳ lạ, không phải hương trà bình thường tôi vẫn biết, bốc lên xộc thẳng vào mũi. Tôi chưa kịp nhấp ngụm nào đã ngã lăn quay ra, mê man, không biết gì nữa…

***

Sáng hôm sau, mẹ tôi đang ở nhà thì có người đến cổng gọi:

“Ới bà. Gọi người vào núi mang con trai về. Có người thấy nó đang nằm mê man ở gốc cây đa chân núi đấy!”.

Mẹ tôi cuống cuồng gọi hai ông anh con nhà bác mang theo đòn, võng đạp xe hộc tốc vào núi. Bê tôi lên cái võng có đòn khiêng, đặt vào giữa hai cái xe đạp chở về. Gọi ông y sĩ Trường ở trạm xá lên khám. Ông nghe tim mạch hồi lâu, vạch cả mắt tôi ra xem bảo, chả bệnh hoạn gì. “Nó ngủ mê. Cứ để nó ngủ chán rồi tự khắc dậy”.

Nhưng tôi cứ nằm miên man mãi, thở đều đều đến tối xẩm vẫn không có vẻ gì là muốn dậy cả. Mẹ tôi hãi. Bèn chạy ra chùa thỉnh sư cụ vào xem thế nào.

Sư cụ chùa làng tôi năm ấy đã ngoài chín mươi tuổi nhưng còn nhanh nhẹn và minh mẫn. Cụ đã tu ở chùa làng từ lúc còn là một tiểu đồng bé xíu. Quanh năm suốt tháng cụ ở trong khuôn viên chùa, sớm tối hai lần lên hương rung chuông gõ mõ tụng kinh thờ Phật. Còn thời gian cụ chăm vườn tược hái lâm lộc bán làm kế sinh nhai. Nhà nào trong làng có đám ma hay cần cúng cáo gì đó, họ ra mời cụ vào làm lễ. Cụ thường sai bày biện lễ vật ban thờ rất đơn giản. Cụ bảo: “Lễ cốt ở tâm. Tâm động quỷ thần linh. Cứ lòng thành là được”.

Sư cụ vào nhà, nhìn tôi đang thiêm thiếp trên giường, bảo: “Hồn vía thằng này đang bị Hồ ly tinh nó ám. Để ta tụng một bài kinh trừ tà cho chứ không thì hỏng”.

Rồi sai mẹ tôi trải một cái chiếu giữa nhà. Bày một mâm lễ là mấy thức hoa cụ hái ở vườn chùa, một đĩa gạo, một đĩa muối, một bát nước lã. Cụ lấy từ cái tay nải nâu sồng mang theo một bộ mõ, thắp ba nén hương. Rồi ngồi khoanh tròn theo trước mâm lễ, một tay để thẳng trước ngực, một tay gõ mõ, bắt đầu tụng kinh…

“Cốc cốc cốc cốc

Nhất pháp hữu vi

Thân như bọt nước

Đời như ngọn đèn

Sắc sắc không không.

Nhất pháp hữu vi

Thân như sương mai

Đời như sao đêm

Sắc không sắc không.

Nhất pháp hữu vi

Thân như đám mây

Đời như ánh chớp

Sắc sắc không không.

Nhất pháp hữu vi

Thân là huyễn thuật

Đời là cơn mộng

Sắc không sắc không.

Nhất pháp hữu vi

Phật pháp vô biên

Cốc cốc cốc cốc…”

Tụng kinh hồi lâu, sư cụ cầm bát nước lã, hắt thẳng vào mặt tôi đang nằm thiêm thiếp trên giường. Tôi choàng vùng dậy, hỏi mẹ: “Nhà nấu cơm chưa? Con đói quá!”

Mẹ tôi mừng mừng tủi tủi, vừa bày mâm xới cơm cho tôi ăn, vừa sờ nắn vai lưng chân tay con. Dường như người sợ tôi không còn lành lặn. Mẹ bảo: “Sáng mai con lên ngay tỉnh gặp bác Thành nhé, rồi tùy bác ấy sắp xếp, làm gì cũng được đi đâu cũng được, đừng về làng nữa.”

Sư cụ đưa cho tôi một lá bùa bằng giấy dó, vẽ những hình ngoằn ngoèo và các chữ gì đó tôi không hiểu, bảo để trong người. Cụ dặn: “Làng này rồi đây sẽ sinh nhiều sự. Ta tiếc hôm đọc chú kinh “Kim cương” thì con không có nhà nên đã bị Hồ ly ám quẻ. May mà âm đức nhà con cao dày, tổ tiên luôn theo phù hộ nên Hồ ly chưa phạm được. Nam mô a di đà Phật!”

Sáng hôm sau, tôi khoác cái ba lô lộn, chào mẹ đi lên tỉnh từ sớm. Mẹ tôi không hỏi, và chính tôi cũng không hiểu tại sao đêm hôm ấy mình lại nằm ngủ mê dưới gốc đa già, cạnh cái miếu hoang bên chân núi Thiên Thai. Đầu óc tôi hoàn toàn u mơ lẫn lộn về cái sự ấy. Tôi chỉ cảm thấy là mình cần phải đi khỏi làng, bỏ những gì hỗn độn rối rắm ra khỏi đầu. Tôi cần một cuộc sống mới. Tôi đi bộ trên con đường đê ngược về hướng Tây độ hơn cây số để đến bến xe. Đê cuối thu đầu đông, cỏ bắt đầu héo úa từng mảng, buồn tê tái. Tôi bất giác ngoái đầu lại sau lưng, đằng Đông. Mặt trời vẫn chưa lên, cả chín đỉnh Thiên Thai vẫn mờ mịt chìm trong sương mây…

Tháng 10 năm 2023


1. Thơ Nguyễn Bảo Sinh.

Viết & Đọc - Chuyên đề mùa xuân 2024

Mệnh phụ phu nhân - Truyện ngắn dự thi của Nguyễn Thanh Bình Hải âu lạc lõng - Truyện ngắn của Đào Quốc Minh Rừng tối - Truyện ngắn của Châu Sa Đêm chiến tranh - Truyện ngắn của Nguyễn Minh Ngọc Đò ơi - Truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Lập
Thời tiết ngày 22/11: Bắc Bộ duy trì lạnh về đêm và sáng, ngày nắng hanh

Thời tiết ngày 22/11: Bắc Bộ duy trì lạnh về đêm và sáng, ngày nắng hanh

Baovannghe.vn - Theo Trung tâm dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, thời tiết ngày 22/11: Bắc Bộ đêm và sáng sớm trời rét, ngày nắng hanh.
Nhà thơ Chu Thùy Liên: Ngẩn ngơ nhìn hoa mận trắng

Nhà thơ Chu Thùy Liên: Ngẩn ngơ nhìn hoa mận trắng

Baovannghe.vn - Mùa hoa mận của Chu Thùy Liên là mùa xuân rộn ràng của núi rừng Tây Bắc, ở đó tác giả gửi gắm những điều tốt lành như ước mơ ai cũng được thả lên trời cao và lời chúc cho những người con của quê hương dù đi đâu xa đều gặp may mắn, duyên lành để "nhớ lối trở về".
Di sản bất hòa ở Đông Âu

Di sản bất hòa ở Đông Âu

Baovannghe.vn - Tinh thần dám đối diện với quá khứ, dám chấp nhận sự đa dạng của văn hóa đã giúp các quốc gia Đông Âu và cả châu Âu bước qua nhiều trở ngại để bảo tồn và khai thác khối di sản kiến trúc XHCN ở Đông Âu.
Sầm Sơn trong thơ ca xưa và nay

Sầm Sơn trong thơ ca xưa và nay

Baovannghe.vn - Sầm Sơn đang góp phần đưa tỉnh Thanh Hóa đứng top đầu các tỉnh phía Bắc trong phát triển kinh tế, văn hóa...
Quả chuối dán trên tường được bán với giá 6,24 triệu đô la

Quả chuối dán trên tường được bán với giá 6,24 triệu đô la

Baovannghe.vn - Ngày 20 tháng 11 năm 2024, quả chuối mang tên Comedian của Maurizio Cattelan đã được bán tại nhà đấu giá Sotheby’s với giá 6,24 triệu đô la, trở thành tác phẩm nghệ thuật gây tranh cãi nhất trong giới nghệ thuật đương đại. Một quả chuối dán tường với cuộn băng keo đã tạo nên cơn sốt toàn cầu, không chỉ vì giá trị vật chất, mà còn vì các câu hỏi nó đặt ra về giá trị thực sự của nghệ thuật.