Ở Hà Nội người ta có cái nếp vào Tết là phải thăm một cái đền hay chùa nào đó. Có lẽ gần như một ám ảnh ở người Hà Nội là phải thắp hương nơi nào đó ngoài bàn thờ gia tiên trong mấy ngày đầu năm. Nói không quá thì chưa đến thăm một di tích nào cũng có nghĩa là chưa hoàn thành nghĩa vụ ngày Tết.
Nguyên do đầu tiên là thói quen gia đình và cộng đồng. Trong những gia đình theo tín ngưỡng truyền thống, trẻ con với bản tính bắt chước những hành vi của người lớn, cùng với một không khí thành kính, dễ có một sự hấp thụ thành một vốn sống theo suốt đời.
Tôi nghĩ đến không khí của gia đình mình thời nhỏ. Mẹ tôi là một người tín tâm. Bà có một quy trình không thể thay đổi mỗi Tết là về quê ở một làng giờ đã lên phường ở Nam Từ Liêm, thắp hương ở chùa làng, rồi đến đình, miếu và quán thờ một vị tướng quân họ Đào. Vị này đánh giặc đến trận thứ 99 thì bị giặc chém gần đứt đầu, con ngựa chiến đưa ngài về đến bờ sông Nhuệ cuối làng, đầu mới bị rơi ra. Một huyền tích đã thành mô típ ở nhiều nơi, nhưng với người làng, đó là câu chuyện độc đáo của một nhân thần độ trì cho nhiều thế hệ. Những ngôi chùa với cây thị to khổng lồ, ngôi quán và miếu nhỏ bé ẩn mình dưới những gốc muỗm xanh um, vào thời tôi còn nhỏ đó là một chốn thâm u của ngày Tết, phảng phất khói nhang và những chút đồ lễ luôn có những người đặt sẵn. Bây giờ chúng nằm gần lại các khu dân cư và khu đô thị mới, như những nén nhang mỏng mảnh giữa lừng lững những khối chung cư vài tháng mọc lên một cái.
Rồi ở khu phố tôi sống, cũng vốn là một cái làng thời xa xưa, với ngôi đình đối diện ủy ban nhân dân phường, ngôi chùa nằm sát cạnh trường cấp một của tôi và một cái miếu thờ vị trạng nguyên duy nhất của phạm vi bốn quận nội thành cũ. Chính chúng tôi đã ngồi học ở dãy nhà tiền đường của ngôi chùa, mãi sau mới trả lại cho chùa. Khi tôi lớn lên, tôi mới biết đình làng có những sự tích khá sinh động so với hình thức kiến trúc không còn nguyên vẹn và không có mấy đặc điểm mỹ thuật giá trị. Dường như phải đến những ngày Tết, tôi mới thấy những nơi chốn này có sức cuốn hút. Bao nhiêu người như tôi đã có một cái lệ là khi hoa đào đỏ rực phố và tiếng loa khai hội những đình đền này mới cảm thấy có nhu cầu vọng tưởng quá khứ?
Thực sự tôi cảm thấy mình như một lữ khách trong suốt cả năm, chỉ đến lúc này mới có một động lực gắn kết với nơi chốn mình sinh ra và lớn lên (nếu như không tính Bệnh viện 108 là nơi được mẹ sinh ra về mặt thể xác). Tôi hòa vào dòng người láng giềng, chầm chậm tìm kiếm quá khứ qua vầng nhang khói.
![]() |
Lễ hội truyền thống di tích Quốc gia đặc biệt Thăng Long Tứ Trấn Đền Kim Liên. Ảnh KTĐT |
Làng tôi có tên Phương Liệt, từng có tên là Giáp Cửu, nằm trong số 9 thôn của làng Sét cổ, tức Thịnh Liệt, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn, khi làng tổ chức các đình đám, rước chạ thì giáp này bị lép vế, nên đã vận động quan trên để tách riêng thành một làng khác. Làng này lại giáp với làng Kim Liên, hai làng từng thờ chung chiếc bia đá vớt được trên khúc sông Kim Ngưu cổ và kết nghĩa. Nhưng rồi xích mích xảy ra, làng Phương Liệt chiếm ngôi đình ở vào khuôn viên Bệnh viện Bạch Mai ngày nay, người Kim Liên cho người đến phá đình, cướp đôi ngựa thờ về xây đình và nhà bia riêng. Phương Liệt xây đình mới, phải vẽ đôi ngựa trên cánh cửa đình thay cho ngựa gỗ. Mỗi lần Phương Liệt tô màu lại đôi ngựa này thì Kim Liên có “động”, xảy ra dịch bệnh. Hai làng đi đến điều đình, đồng ý với nhau ba năm mới tô lại ngựa có lễ tạ để tránh tai vạ.
Nhưng đến thời tôi thì không còn đôi ngựa hồng và bạch đó trên những cảnh cửa nữa. Ở cổng đình xây mới có đôi ngựa đắp vữa màu trắng và màu đen, còn tòa đại bái có đôi ngựa gỗ trắng và đỏ, không rõ có còn chứa nỗi ám ảnh ma quái xa xưa không. Hiện giờ đình Kim Liên chung với đền thờ thần Cao Sơn trở thành trấn phía Nam của Thăng Long tứ trấn, trong khi đó đình Phương Liệt thờ một phu nhân là vợ vị thần quan trọng nói trên. Thường thì có một nghi thức rước kiệu và ngựa trắng từ đình Kim Liên về đây đón bà vào ngày lễ trung tuần tháng ba âm lịch. Tôi không rõ bây giờ nghi thức ấy còn được tiến hành không, nhưng sự tích thời trước có lẽ chỉ còn truyền trong những người phụ trách văn hóa hay giữa những người làng hoài cổ giữ nếp xưa. Địa bàn phường có lẽ phải đến ba phần tư là các khu tập thể, khu dân cư mới xung quanh các nhà máy, xí nghiệp có từ sau năm 1954. Cư dân những nơi này không có mấy liên hệ với cái lõi truyền thống khởi thủy của làng. Dịp Tết chính là lúc có một sự quan tâm trở về cái lõi này để tỏ lòng thành kính với vị “thành hoàng bản cảnh” ở các tổ dân phố mà biểu hiện là những tấm bảng đen dùng để thông báo tin tức cư dân các ngõ ngách có vẽ những câu khẩu hiệu chúc năm mới cùng cành hoa đào vẽ bằng phấn màu và trên đó là dòng thông báo lễ xuân tế ở đình làng.
Tôi gặp những tấm bảng sơn đen ấy ở nhiều nơi, xung quanh những ngõ ngách vốn là đường làng xưa. Những con ngõ kích thước vừa cho một người gồng gánh tránh một chiếc xe trâu đi thuở trước nay thành những cái hang rắn hun hút giữa những ngôi nhà xây ken đặc, chỉ để lọt chút ánh sáng lờ mờ rọi xuống. Những khu dân cư này bình thường vẫn mang vẻ lầm lũi của những xóm trọ, các khu dân cư buôn bán nhỏ, những nơi mối quan hệ dân phố lỏng lẻo, nhưng Tết là lúc chúng tựa những nhánh cành đào dẫn về một gốc là ngôi đình hay nếp chùa, nhắc nhở người ta đây là một cộng đồng cố cựu. Những bà già giống như mẹ tôi, mặc áo dài màu đi chúc Tết hay áo dài nâu ngày lên chùa, có thể xuất hiện bất cứ khúc quanh ngõ nào đó. Vài ông già mặc áo dài đội khăn xếp lững thững đi vào đình làm những thủ tục của người có phận sự việc làng. Thực tế các ông là những người về hưu, thông thạo quan hệ ở các tổ dân phố, vẫn xông xáo ở tổ dân phòng hay các nhắc nhở nhóm cư dân trên zalo.
Sự có mặt của những “người quen” trong vai người có phận sự ở làng khiến cho người cả năm mới có một ngày bén mảng đến cội xưa cảm thấy dễ gắn bó với những nghi thức hơn.
Tất nhiên sự dày đặc hệ thống các di tích tín ngưỡng ở Hà Nội là một lý do về mặt vật chất khiến người sống ở đây không thể không biết đến một thế giới quá khứ đã ngự trị. Nhưng biết mà lại chẳng bao giờ lui tới hay cảm được điều đó lại giống như tôi, vẫn chỉ biết gia nhập một cách e dè. Ấy là chưa nói đến khoảng cách thế hệ khi con người hiện đại ít có cơ hội tiếp cận những nội dung của các thực hành văn hóa truyền thống ở những nơi chốn này. Tôi nghĩ đến trào lưu thiền, các khóa tu tập hay tái hiện các màn diễn xướng dân gian theo kiểu nửa phục cổ nửa “world music” hóa. Nhiều nghiên cứu văn hóa dùng các mô hình từ bên ngoài vô tình tạo ra những sự phân loại và khuôn mẫu hóa các thực hành văn hóa. Với bản chất từ khoa học thực chứng, chúng nói nhiều về cơ chế tạo dựng truyền thống nhưng lại xóa luôn không khí bí ẩn của những huyền thoại. Chút bảng lảng huyền hoặc quyến rũ có được nhiều khi đến từ niềm tin ở lẽ tốt đẹp mà nghi thức mang lại.
Cách ngôi đình Phương Liệt vài chục mét là ngã ba sông Lừ và sông Sét, hai nhánh của hệ thống sông Tô Lịch và Kim Ngưu. Sông Lừ chảy từ vùng Kim Liên xuống, giờ chỉ còn là một dòng sông nhỏ và ô nhiễm. Đâu là nơi hai làng đã vớt được tấm bia để rồi thành một câu chuyện chung của sự gắn kết và cả chia tách, thời gian đã làm mất dấu. Chỉ còn lại những ngôi đình giúp người sau hồi tưởng lại quá khứ, dẫu chỉ là trong vài khoảnh khắc nhang khói của mùa xuân.