Sáng tác

Những con đường vòng quanh Pisa - Truyện của nhà văn Đan Mạch Isak Dinesen

Isak Dinesen / Nguyễn Tuấn Bình dịch
Văn học nước ngoài
15:32 | 03/08/2024
Baovannghe.vn - Đằng cuối chân trời chàng nhìn thấy một làn kẻ chấp chới, xanh thẳm, nhấp nhô, phía trên là bóng mây nhỏ bé lơ lửng giữa tầng trời. Chàng nghĩ khi mặt trời nhú lên là lúc sẽ thấy được Pisa. Vậy đây là chặng đầu tiên trên hành trình của chàng, bởi chàng mang theo thư giới thiệu tới người ở nơi đó.
aa

I. LỌ MUỐI NGỬI

Bá tước Augustus von Schimmelmann, nhà quý tộc Đan Mạch trẻ tuổi mang dáng vẻ ủ dột, thân hình nếu đừng hơi đẫy đà thì chắc cũng ưa nhìn, đương viết thư trên chiếc bàn đá cối xay trong khuôn viên một osteria(1) gần Pisa trong buổi chiều tối tháng Năm tươi đẹp vào năm 1823. Chàng vẫn chưa viết xong được, nên đành phải đứng dậy đi tản bộ trên đại lộ trong khi mọi người trong quán đang chờ bữa tối của mình được dọn ra bên trong. Mặt trời sắp lặn. Những tia nắng vàng len qua hàng dương cao cao dọc ven đường. Không khí ấm áp, trong lành, ngập tràn hương vị cỏ cây ngọt ngào, hàng đàn chim nhạn chao liệng vờn quanh, như thể muốn tận hưởng nốt vầng dương cuối ngày.

Tâm trí của Bá tước Augustus còn quẩn quanh bên lá thư. Lá thư gửi cho một người bạn Đức, người bạn học chàng quen trong những tháng ngày sinh viên vui vẻ ở Ingolstadt, người duy nhất cậu có thể thổ lộ tâm tình. Nhưng liệu mình đã, chàng nghĩ thầm, thật sự thành thật trong lá thư gửi bạn? Mình sẽ bỏ ra cả một năm trời để trò chuyện với bạn mỗi tối, vừa trò chuyện vừa xem được biểu cảm của cậu ấy. Mà để biết đâu là sự thật thì khó lắm thay. Mình không chắc khi chỉ có một mình thì liệu người ta có biết đâu là sự thật đích xác hay không. Sự thật, giống như thời gian, là ý niệm bắt nguồn và phụ thuộc vào mối tương tác giữa con người với con người. Sự thật tìm thấy ở đâu khi nói về ngọn núi vô danh ở châu Phi và thậm chí không dấu chân người? Sự thật về con đường này là nó hướng đến Pisa, còn sự thật về Pisa thì có thể khám phá trong sách vở ghi chép và từ những gì con người biết được.Thế sự thật nào dành cho người sống trên hoang đảo? Còn mình, mình khác gì người sống trên hoang đảo đâu. Thủa sinh viên, bạn bè thường hay cười mình vì thói quen ngắm mình trước gương, và gian buồng của mình trang trí toàn bằng gương. Bọn họ quy cho chuyện này là mắc thói chỉ chăm chăm nghĩ tới bản thân. Nhưng quả thật đâu phải vậy. Mình soi mình trước những tấm gương để trông mình thế nào. Tấm gương sẽ tiết lộ sự thật về bản thân con người bạn. Trong lúc rùng mình phẫn nộ, chàng chợt nhớ hồi còn nhỏ từng được đưa đến gian buồng gương trong tòa Panoptikon ở Copenhagen, nơi người ta nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của bản thân từ bên trái, bên phải, trên mái nhà và thậm chí cả dưới sàn nhà, từng chiếc trong hàng trăm chiếc gương đó khiến gương mặt và hình hài bạn méo mó vặn vẹo theo vô vàn cách - kéo dài, thu ngắn, mở rộng, co nén hình dạng mà vẫn giữ lại được một số nét hao hao - để khiến ta tưởng rằng nó như thể là đời thực. Thành ra bản chất con người bạn, phẩm cách và lối sống, được phản ảnh trong tâm trí mỗi con người bạn từng gặp gỡ và chung đụng, trở thành tấm chân dung, bức biếm họa về bản thân bạn, cứ thế tồn tại và ngụy tạo nên, bằng cách nào đó, sự thật về bạn. Kể cả khi bức họa đó có y tâng bốc thì cũng chỉ là màn châm biếm và dối trá. Suy nghĩ thân thiện và biết thấu hiểu như Karl, chàng nghĩ, hệt như tấm gương soi đích thực vào tâm hồn, và điều đó gây dựng nên tình bạn quý giá dành cho mình. Mà tình yêu thậm chí còn phải hơn như thế. Có lẽ nó muốn, trên suốt dọc đường đời, đồng hành trong tâm trí người kia, phản ảnh vận may rủi của chính bạn, chứng tỏ với bạn rằng mọi sự chẳng phải là mơ. Ý niệm về hôn nhân đối với mình là sự hiện hữu của một con người trong đời mình, với người ấy mình có thể tâm sự, vào ngày mai, về những điều xảy đến hôm qua.

Chàng thở dài, dòng suy nghĩ trở lại với lá thư. Đó là nơi chàng gắng giãi bày với bạn những lý lẽ buộc chàng rời khỏi nhà. Thật không may cho chàng khi có người vợ cuồng ghen. Mà đâu phải, chàng nghĩ, nàng ghen tuông với những người đàn bà khác. Thực tế là nàng chẳng mảy may để tâm, bởi lý do trước hết là nàng biết vị thế của mình khi đứng cạnh bọn họ, nàng quyến rũ và toàn mỹ hơn tất cả; hơn nữa, nàng cảm thấy rằng bọn họ chẳng có mấy ý nghĩa đối với mình. Bản thân Karl hẳn còn nhớ những chuyến du ngoạn ngắn ngủi ở Ingolstadt chẳng đáng là gì đối với mình nếu đem so với vở opera, khi dàn ca sĩ xuất hiện và mang đến cho bọn ta vở Alceste(2) hay Don Giovanni(3) - mà thậm chí còn chẳng đáng coi trọng bằng chuyện nghiên cứu của mình. Vậy mà nàng lại đi ghen tuông với bạn bè, đàn chó, cánh rừng Lindenburg, những khẩu súng cùng sách vở của mình. Nàng ghen tuông với hết thảy những thứ trời ơi đất hỡi nhất.

Chàng nhớ về chuyện xảy ra sáu tháng sau khi cưới. Chàng bước vào buồng người vợ để đưa cho nàng đôi bông tai chàng nhờ bạn ở Paris mua cho mình từ điền trang Công tước Berri. Bản thân chàng luôn say mê đồ trang sức, sành sỏi về chất lượng và kiểu cách của chúng. Thậm chí nhiều lần chàng bực bội khi thấy người ta tùy tiện đeo chúng lên người, nên sau hôn lễ điều mang lại niềm vui cho chàng là chúng làm tôn lên nhan sắc của người vợ trẻ, nàng đeo chúng rất hợp. Những món trang sức vô cùng tinh xảo, chàng thích thú khi có được chúng và đích thân gắn lên tai nàng, giơ gương lên cho nàng nhìn ngắm. Nàng quan sát chàng, nhận ra ánh mắt chàng hướng về những hạt kim cương chứ chẳng phải dung nhan mình. Nàng vội vã tháo bỏ chúng rồi trao lại cho chàng. “Em e rằng,” nàng nói, với ánh nhìn khô khốc mà kỳ lạ thay như thể ngập tràn nước mắt, “em không có chung sở thích với anh với những món đồ mĩ lệ này.” Kể từ hôm đó nàng không còn đeo trang sức nữa, chọn phong cách ăn mặc giản dị như người theo đạo, vẻ duyên dáng thanh nhã của nàng khiến người ta xôn xao và bao người học đòi theo.

Liệu mình có khiến cho Karl hiểu, Augustus nghĩ, rằng nàng quả thật lại đi ghen tuông với đống trang sức của mình? Ắt hẳn chẳng ai có thể hiểu được chuyện ngớ ngẩn đến thế. Mình biết rằng đến ngay cả bản thân còn chẳng hiểu được nàng, mình thường nghĩ rằng mình khiến cho nàng không hạnh phúc được như những gì nàng đem lại cho mình. Mình từng hy vọng tìm thấy, nơi người vợ, một người mình có thể hoàn toàn thành thật, một người mình có thể chia sẻ mọi tâm tư. Nhưng với Malvina thì tuyệt đối không thể. Nàng buộc mình phải nói dối nàng cả chục lần mỗi ngày, thậm chí lừa dối nàng từ điệu bộ đến lời ăn tiếng nói. Không được, mình nhất định không thể tiếp tục thế này được, và đã đến lúc mình phải rời xa nàng, bởi hễ ở bên nàng thì lúc nào cũng xảy ra chuyện.

Mà chuyện gì sẽ xảy ra với mình lúc này? Mình không biết phải làm gì với bản thân và cuộc đời. Liệu mình có thể tin rằng số phận sẽ giang tay cứu giúp mình dù chỉ một lần?

Chàng lấy một vật nhỏ từ trong túi áo gi-lê ra và ngắm nghía nó. Đó là lọ muối ngửi, món đồ các quý bà quý cô thế hệ trước thường dùng, mang hình trái tim. Vỏ ngoài được tô vẽ phong cảnh rừng cây và cây cầu bắc qua sông. Trên nền cảnh trí ấy, cao cao trên ngọn đồi hay ngọn núi đá, là tòa lâu đài màu hồng bên ngọn tháp, còn bên dưới là dải ruy băng ghi dòng chữ Amitié sincère(4).

Chàng mỉm cười khi nghĩ rằng chiếc lọ bé con này lại nắm giữ một vai trò thúc đẩy chàng đến với nước Ý. Nó từng thuộc về người cô không chồng của cha chàng, con người xinh đẹp một thời và dành hết tình thương yêu cho chàng. Hồi thiếu nữ, bà từngđến thăm nước Ý, và trở thành vị khách trong chính cung điện màu hoa hồng đó, mọi điều mộng mơ phiêu lưu lãng mãn trong tâm trí bà đều gắn bó với nó. Niềm tin trong bà đặt cả vào lọ muối ngửi nhỏ bé của mình, nghĩ rằng nó sẽ chữa lành mọi nỗi đau thể xác lẫn tâm hồn. Hồi còn là cậu nhóc, chàng từng đắm mình trong thế giới tưởng tượng ấy, tự mình khơi gợi lên chuyện kể về những điều tuyệt vời tìm thấy trong tòa dinh thự đó và đời sống hạnh phúc bắt nguồn từ nơi này. Giờ thì người bà đã mất lâu rồi, chẳng ai biết nó tọa lạc nơi đâu. Có lẽ, chàng nghĩ, nhất định sẽ có ngày mình băng qua cây cầu dưới hàng cây, ngắm nhìn ngọn núi đá và tòa lâu đài hiện ra ngay trước mắt.

Bí ẩn quá và thật khó để biết nó có tồn tại hay không, chàng nghĩ, và toàn bộ điều này có ý nghĩa gì? Tại sao đời mình đối với mình cơ hồ lại quan trọng khủng khiếp đến thế, quan trọng hơn hết thảy mọi điều từng xảy đến? Có lẽ trăm năm nữa người đời sẽ biết về mình, biết được nỗi sầu muộn hằng đêm của mình, mà nếu thế đi chăng nữa thì cũng chỉ coi là chuyện tầm phào thôi.

II. VỤ TAI NẠN

Đúng lúc này dòng suy nghĩ của chàng bị cắt ngang bởi âm thanh náo động khủng khiếp phía sau. Chàng quay lại và ánh mặt trời sắp tắt chiếu thắng vào khiến chàng hoa mắt và trong thoáng giây đó thế gian như ngập tràn ánh vàng, ánh bạc chói lóa. Trong đám bụi mù trời bỗng xuất hiện cỗ xe ngựa bốn bánh đương lao về phía chàng với tốc độ kinh hoàng, bầy ngựa phóng như bay quăng quật cỗ xe hết bên này sang bên kia con đường. Trong lúc quan sát, chàng dường như nhìn thấy có hai bóng người lộn nhào ngã văng ra ngoài. Bọn họ, hóa ra là, gã đánh xe và tên phụ lái bị ném văng từ chỗ ngồi xuống mặt đường. Trong khoảng khắc đó Augustus đã nghĩ đến chuyện lao mình về hướng đàn ngựa đó để chặn chúng lại mà cỗ xe chưa kịp đến gần thì chuyện khác xảy đến; lần lượt từng con ngựa thoát ra khỏi cỗ xe, lồng lộn phi vọt qua chàng. Cỗ xe bị liệng sang một bên vệ đường, chết đứng ở đó, một bánh sau long ra. Chàng lao bổ đến.

Lúc này, tựa vào băng ghế của cỗ xe đổ nát, trong đám bụi mịt mù là ông lão trọc đầu mang gương mặt lịch thiệp với chiếc mũi to. Lão nhìn chằm chằm vào Augustus, mặt mày tái nhợt như xác chết, chỉ ngây ra bất động khiến Augustus chột dạ tự hỏi hay là lão chết mất rồi. “Hãy cho phép tôi giúp ngài, thưa Ngài,” Augustus lên tiếng, “Ngài vừa trải qua vụ tai nạn kinh hoàng, mà tôi mong rằng ngài không bị thương nặng.” Lão vẫn cứ nhìn chàng như vậy, bằng ánh mắt đờ đẫn.

Người phụ nữ trẻ đẫy đà ngồi băng ghế đối diện ngã xõng xoài tay chân giữa chồng nệm và thùng ghế ngồi, lúc này bắt đầu tìm cách thoát ra khỏi đống lộn xộn, vừa lu loa rên rỉ. Lão hướng mắt nhìn cô. “Đội mũ lên cho ta,” lão nói. Người thị tỳ, lúc này Augustus nhận ra cô là ai, sau một hồi vật lộn để tìm thấy chiếc mũ đồ sộ gắn lông chim đà điểu, xoay xở để đặt nó yên vị trên mái đầu trọc lốc già nua. Gắn bên trong chiếc mũ này là hằng bao lọn tóc xoăn óng ả, và tức khắc ông lão biến thành một quý bà đẹp lão với dáng vẻ đường hoàng. Chiếc mũ chùm đầu có vẻ khiến bà trở nên thư thái. Bà thậm chí còn thoáng nở nụ cười cảm tạ dịu dàng dành cho Augustus.

Gã đánh xe giờ mới xộc đến, bụi phủ khắp người, trong khi tên phụ lái còn nằm bất tỉnh nhân sự ngay giữa đường. Mọi người trong osteria cũng đã xuất hiện với những cánh tay giơ lên và những lời hô hoán thương cảm. Một trong số bọn họ dắt một con ngựa quay lại, còn xa xa đằng kia người ta trông thấy hai người nông dân đang gắng giữ chặt con còn lại. Một vài người thì đỡ quý bà ra khỏi cỗ xe đổ nát rồi dìu vào buồng nghỉ sang trọng nhất trong tửu quán, có chiếc giường lớn phủ rèm buông màu đỏ. Bà vẫn còn trắng bệch như xác chết, hơi thở khó nhọc. Phần trên cổ tay phải dường như đã gãy, mà bà còn gặp phải chấn thương nào khác không thì người ta chưa thể nói được. Ả thị tỳ với cặp mắt tròn xoe như hai chiếc cúc to đen, hướng về phía Augustus và hỏi: “Cậu có phải là bác sĩ không?”

“Không,” tiếng quý bà nằm trên giường cất lên, giọng thều thào, khò khè vì đau đớn. “Không phải đâu, cậu này chẳng phải bác sĩ hay linh mục, mà ta đâu muốn gặp hạng người đó. Cậu ta dòng dõi quý tộc, lại chính là người ta cần. Tất cả các người ra ngoài hết đi, ta có chuyện muốn nói riêng với cậu ấy.”

Khi chỉ còn lại mình bọn họ, thần thái bà biến sắc, bà nhắm mắt lại; rồi bà bảo chàng tiến lại gần để hỏi thăm tên tuổi. “Thưa Bá tước,” bà nói, sau chút ngập ngừng, “cậu có tin vào Chúa không?”

Câu hỏi trực diện đó khiến Augustus bối rối, mà khi thấy ánh mắt già nua nhợt nhạt ấy đổ dồn về phía mình, chàng đáp lại: “Đó đích thực chính là câu hỏi cháu đặt ra cho mình khi bầy ngựa của bà bỏ chạy. Cháu chẳng biết nói sao.”

“Đó là ý Chúa,” bà ta nói, “thậm chí đến lớp trẻ sau này cũng sẽ nhận ra. Ta sắp chết rồi.” bà tiếp lời, “mà ta chẳng thể, làm sao nhắm mắt xuôi tay được nếu chưa nhìn mặt cháu gái mình lần cuối. Liệu cậu, con người xuất thân quý tộc với tâm hồn cao thượng, có đồng ý đi tìm và đưa nó đến đây không?” Bà ngừng lại, cả loạt biểu cảm lạ lùng lướt qua trên gương mặt. “Bảo với nó rằng,” bà nói, “bàn tay phải của ta chẳng thể nhấc lên nổi nữa, và ta sẽ cầu Chúa phù hộ cho con bé.”

Augustus, sau một thoáng tư lự, hỏi bà xem liệu có thể tìm thấy quý cô ấy ở đâu. “Con bé ở Pisa,” người bà đáp, “tên nó là Donna Rosina di Gampocorta. Nếu cậu từng ở cái xứ này chín tháng trước thì hẳn đã biết danh tính con bé, bởi khi ấy chẳng ai còn nói chuyện gì khác.” Giọng bà yếu đến nỗi chàng phải ghé mặt sát gối đầu giường, trong khoảng khắc đó chàng nghĩ đến chuyện chẳng lành. Bỗng dường như bà thu hết sức tàn. Giọng bà thay đổi và đôi lúc còn trở nên lanh lảnh, mà chàng không chắc bà có nhận ra chàng hay nhận ra mình đang ở đâu không. Sắc hồng nhợt nhạt ửng lên trên làn má của bà; hàng mi mắt, như thể dải nhiễu đen, khẽ hấp háy. Cơn xúc động mạnh và lạ lùng dường như khiến toàn thân bà rung lên. “Ta sẽ kể cho cậu nghe toàn bộ câu chuyện,” bà nói, “để rồi cậu sẽ hiểu việc ta muốn nhờ cậu làm giúp ta.”

III. CÂU CHUYỆN CỦA QUÝ

“Ta là bà lão già cả,” bà nói, “nên ta hiểu rõ thế gian này. Ta chằng còn níu bám vào nó, bởi ta thấu hiểu nó đủ để nhận ra rằng mình càng níu bám điều gì thì nó càng xem thường và khiến mình mệt mỏi. Ta thậm chí chẳng còn níu bám vào Chúa, cũng chính bởi lý do này. Đừng làm ra vẻ xót thương cho ta bởi đằng nào ta cũng phải chết, bởi ta cảm thấy rằng thực sự là comme il faut(5) để chết đi hơn là sống tiếp.

“Ta có nhiều người yêu thương mình, một người chồng, cả trăm bè bạn và người ái mộ. Riêng ta thì yêu thương ba người trong cuộc đời này, trong số đó giờ ta chỉ còn lại duy nhất một người, con bé Rosina ấy.

“Mẹ nó không phải con đẻ của ta - Ta là mẹ kế của mẹ nó. Mà tình cảm bọn ta dành cho nhau còn hơn bất kể tình thân mẹ con nào. Đầu đuôi sự tình là thế này, thời con gái ta từng mang mối lo sợ khủng khiếp đối với chuyện sinh nở, thế nên khi nhận lời hỏi cưới của một người góa bụa, người này đã mất đi người vợ đầu sau khi sinh, ta đề ra điều kiện rằng bản thân ta sẽ không bao giờ sinh thêm cho ông ấy đứa con nào nữa, mà bởi ta có nhan sắc và giàu có nên ông ấy chấp nhận. Con bé Anna đáng yêu đến mức ta tưởng như chính mắt ta chứng kiến pho tượng thánh Joseph trong Vương Cung Thánh Đường ngoái đầu nhìn con bé, rồi sực nhớ đến hình ảnh Đức Mẹ Đồng trinh vào cái hồi bọn họ đính ước. Bàn chân con bé chụm lại như mỏ thiên nga, và người thợ đo ni đóng giầy cho bọn ta theo khuôn dạng đó. Ta dạy dỗ để con bé biết rằng nhan sắc phụ nữ là kiệt tác hoàn mỹ của Đức Chúa, không được phép trao cho ai, vậy mà bước sang tuổi mười bảy nó rơi vào lưới tình của một gã đàn ông, một quân nhân, bởi hồi ấy là thời kỳ tại Pháp nổ ra chiến tranh với vị Hoàng Đế đáng sợ của bọn họ. Nó cưới rồi đi theo anh ta, một năm sau thì qua đời trong nỗi giày vò cùng cực, hệt như mẹ nó.

“Dẫu chưa bao giờ ta thực sự quan tâm tới nam giới, ta vẫn hy vọng đứa bé là con trai. Mà đó lại là con gái, cô cháu được đưa về cho ta nuôi nấng, bởi bố nó chẳng thể chịu đựng được khi nhìn thấy con bé, rồi quả thực chỉ ít tháng sau đó anh ta qua đời vì trầm uất, để lại cho con bé gia tài kếch xù, phần lớn từ chiến lợi phẩm chiến tranh.

“Mà giờ cháu gái ta đã lớn, cậu cũng hiểu mà, ta suốt ngày chỉ nghĩ xem làm cách nào để sắp đặt chu toàn cho tương lai con bé. Chẳng phải ta từng nói nhan sắc của mẹ nó là tuyệt tác của Đấng Toàn Năng? Không phải đâu, nó chỉ chứng tỏ đấy là sản phẩm thử nghiệm của ngài thôi, chính Rosina mới là kiệt tác ngài nhào nặn. Con bé đẹp đến nỗi ở Pisa này người ta kháo nhau rằng con bé mà uống ngụm rượu vang đỏ thì các cậu chỉ còn nước lao theo để được tuôn qua cổ họng xuống bầu ngực con bé. Ta đâu muốn nó lấy chồng, thành thử suốt thời gian dài ta khá an tâm khi thấy con bé tỏ ra khó chiều và dửng dưng trước toàn thể cánh đàn ông, nhất là với những gã trai trẻ hào hoa vây quanh nó với niềm ái mộ. Mà ta ngày càng già yếu, ta không muốn chết đi rồi bỏ mặc nó ở lại một mình với thế gian này. Vào buổi sáng đúng ngày sinh nhật lần thứ mười bảy của nó, ta dâng lên Nhà thờ Santa Maria della Spina một báu vật quý giá họ ngoại của ta gìn giữ suốt hằng trăm năm, chiếc đai trinh bạch do một cụ tổ đặt làm ở Tây Ban Nha khi cụ lên đường tiễu phạt bọn dị giáo. Và bởi vợ cụ lại là cháu gái của Đức Thánh Ferdinand xứ Castile(6), thế nên nó được đính thêm thánh giá hồng ngọc. Đấy là thứ ta dâng lên các thánh để soi tỏ cho ta nghĩ thông suốt việc nên làm.

“Rồi trùng ngay buổi chiều tối hôm đó, ta có tổ chức buổi đại dạ tiệc khiêu vũ, ở đó Hoàng thân Potenziani bắt gặp Rosina, và ngỏ lời cầu hôn. Giờ ta hỏi cậu, hỡi Bá tước, chẳng phải đó là màn đáp lại lời thỉnh cầu của ta sao? Bởi Hoàng thân là một đám cao sang. Ông ta bây giờ là người giàu có nhất vùng, bởi ai người ta cũng biết dòng họ này kiếm tiền như nước. Dẫu đã luống tuổi nhưng ông ta là người vô cùng quyến rũ, một Maecenas(7), con người có khiếu thẩm mỹ tinh tế và đa tài, còn là bạn lâu năm của ta. Thành ra ta còn biết chuyện con tạo trớ trêu khiến cho ông ta, dẫu là kẻ ái mộ phái nữ bọn ta, bất lực trong chuyện làm chồng hay tình nhân. Mà do thói phù phiếm hay yếu đuối mà ông ta không thích người ngoài biết chuyện, ông ta thường hay cặp kè với đám kỹ nữ hạng sang xa hoa lộng lẫy, đám này sợ ông ta, thành thử bí mật này không bị lộ ra ngoài. Mà tình cờ ta biết được, bởi ông ta nhiều năm trước đây từng là một trong số kẻ đeo đuổi ta nồng nhiệt nhất, ta từng cảm mến ông ta vô cùng. Ta quá sung sướng và tạ ơn trời đất đến nỗi ta ngắm chính gương mặt ta mỉm cười với ta trước gương, trông hệt như gương mặt của thần thánh.

“Bản thân con bé Rosina đã chấp nhận lời cầu hôn của ngài Hoàng thân, bởi lúc ấy nó cảm mến ông ta vô cùng bởi phong thái quyến rũ và trí tuệ cũng như những món quà lộng lẫy mà ông ta trút lên người nó. Bỗng một tối nọ sau lễ đính ước, khi ta đã lên giường nghỉ ngơi, Rosina bước vào phòng ta trong bộ váy đầm sa-tanh đỏ thắm. Con bé đứng trước ánh nến, trông đáng yêu như thể vị thánh Michele trẻ tuổi đích thân chỉ huy đám người trên thiên đình, rồi bảo với ta, như thể đó là tin mừng dành cho ta vậy, rằng nó đã yêu người anh họ, Mario, và sẽ chẳng chịu cưới ai ngoài cậu ta. Ngay lúc ấy ta cảm thấy tim mình như ngừng đập. Mà ta cố giữ sắc mặt, chỉ nhắc con bé nhớ rằng ngài Hoàng thân là một tay thiện xạ, và nếu nghĩ cho cậu anh họ, thì tốt hơn hết để cậu ta tránh xa khỏi chuyện này nếu con bé thực sự quý mến cậu ta. Con bé chỉ đáp lại như thể chỉ có cái chết mới chia lìa được tình yêu của nó.

“Ta chẳng ghét bỏ gì Mario, bởi lạ lùng thay lúc nào ta cũng có cảm tình với dòng họ nhà chồng, dẫu tất cả bọn họ đều lập dị sao đó, như cậu này thì bộc lộ đam mê thiên văn học. Mà để làm chồng thì cậu ta không thể so bì với vị Hoàng thân được, mà hơn nữa ta mới chỉ nhìn thấy Rosina và cậu ta bên nhau đã nhận ra rằng nếu ta mềm lòng, thì chỉ chín tháng sau, sẽ đẩy thẳng con bé xuống huyệt mộ để đi theo mẹ nó. Rosina đã ngoảnh mặt trước những lời ve vãn của ngài Hoàng thân. Nó tưởng rằng nếu muốn hái mặt trăng thì nhất định cũng sẽ có, huống hồ là cậu anh họ. Khi ta nhận ra con bé chìm đắm trong mộng tưởng, ta dẫn nó đến trước mặt và giảng giải cho nó về thực tế cuộc sống. Mà chỉ có Chúa mới biết điều gì tác động đến thế hệ phụ nữ sinh ra sau thời Cách mạng Pháp cùng những cuốn tiểu thuyết của người đàn bà de Staël(8) - một người chồng giàu sang, có địa vị, biết bao dung là chưa đủ, bọn họ còn muốn phải có được tình yêu như chúng ta đón nhận Bí tích.”

Đến đây quý bà ngưng câu chuyện. “Thế cậu đã kết hôn chưa?” bà hỏi.

“Dạ, cháu lập gia đình rồi ạ,” chàng trai đáp lời bà.

“Thế thì ta chẳng cần phải,” bà tiếp tục, có vẻ hài lòng với lời đáp lại của chàng, “diễn giải gì thêm cho cậu về sự dại dột trong những quan niệm ấy. Rosina bướng bỉnh quá khiến ta chẳng thể nói lý lẽ với nó. Nếu đến cuối cùng nó lại bảo ta rằng điều nó muốn là nhất định phải sinh chín đứa con thì ta cũng chẳng lấy làm kinh ngạc đâu.

“Ta đến cái tuổi khi đã không chịu đựng được thì phát cáu lên. Ta trở nên điên tiết với con bé, điên tiết đến nỗi nếu giờ mà có tên thảo khấu nào quăng dây trói bắt nó lên ngựa đưa lên vùng rừng rú ta cũng mặc. Ta bảo ngài Hoàng thân rằng bọn ta phải khẩn trương làm lễ cưới, và ta cấm cửa Rosina không được ra khỏi nhà. Trong vòng mấy tháng đó ta sống trong trạng thái cực kỳ âu lo đến mức không thể chợp mắt được, đêm nào cũng như thể chuyến du hành vòng quanh thế gian vậy.

“Rosina có một đứa bạn, Agnese della Gherardesca, là người con bé suốt đời yêu quý chỉ sau ta. Có lần, khi hai con bé cùng nhau thêu thùa, chúng chích đầu ngón tay, trộn chung máu để kết tình chị em. Con bé này được để cho lớn lên tự do phóng túng và trở thành đứa con đích thực của thời đại này. Nó nhồi nhét vào trong đầu ý nghĩ nó trông như thể Quý ông(9) phiêu lưu Byron, người ta nói về ông ta nhiều quá, nó thường ăn mặc cưỡi ngựa như đàn ông, còn hay làm thơ nữa. Để khiến Rosina tươi tỉnh hơn ta bảo Agnese đến và ở lại cùng con bé tuần cuối cùng trước hôn lễ. Mà chả biết ma xui quỷ khiến thế nào mà bọn chúng tin rằng có một mối tình đương lâm nguy, và ta tin rằng con bé đã xoay sở cách nào đó để đưa thư đến cho Mario.

Vào buổi sáng trước lễ thành hôn, khi ngài Hoàng thân và ta nghĩ rằng mọi chuyện đã ổn thỏa, Agnese kiếm được chỗ thuê cỗ xe ngựa, Rosina lẻn ra khỏi dinh thự và chui vào trong, chúng khởi hành đi Pisa. Người hầu gái trung thành tố giác hành động của bọn chúng cho ta hay, thế là ta lao đến cỗ xe của mình và lập tức đuổi theo. Tỡi giữa trưa, ta bắt kịp cỗ xe nhỏ tồi tàn đó ở trên đường, Agnese điều khiển nó, mặc trang phục của gã đánh xe, bầy ngựa chỉ chực gục xuống trong khi của ta thì còn sung sức lắm.

“Khi Rosina trông thấy ta phóng hết tốc lực và sắp đuổi kịp, con bé liền nhao ra ngoài, và ta cũng thế, rồi ta xông về phía nó, đè nó xuống mặt đường, mà chẳng ai trong bọn ta nói lời nào. Ta đưa con bé vào trong cỗ xe của ta, chẳng thèm đoái hoài bất cứ điều gì tới con bạn nó, rồi bảo người đánh xe quay trở về. Trên đường có nhà nguyện nhỏ xen giữa rặng cây. Khi bọn ta đến gần Rosina xin phép ta cho ngừng xe lại để vào trong chốc lát. Ta tự nhủ, “Chắc nó định thề nguyền gì đây,” rồi ta bước ra, đi cùng nó vào trong nhà nguyện. Mà trong gian buồng tăm tối đó, thoang thoảng mùi hương khói lạnh lẽo, ta cảm thấy trong tuyệt vọng rằng trái tim người thiếu nữ là ngôi nhà thờ tối tăm, chốn bí ẩn, và thật vô ích cho một bà già gắng tìm ra phương cách gì ở trong này. Rosina tiến thẳng đến bệ thờ rồi quỳ gối xuống. Nó nhìn vào gương mặt của Đức Mẹ rồi trở ra, cứ như ta là bà lão quê mùa khấn vái trong nhà nguyện cho chính mình vậy. Ta đau khổ vô cùng, bởi dù cố gắng đến thế nào đi chăng nữa ta cũng chẳng thể thốt lên lời khấn nguyện. Điều đó cơ hồ khiến ta biết rằng Đức Mẹ và các vị thánh đã ngoảnh mặt làm ngơ. Khi đi ra ngoài và thấy con bé đứng bên cạnh cỗ xe hướng ánh mắt về Pisa, ta bảo với nó rằng. “Ta biết rằng, mà chẳng rõ cháu thì sao,” ta nói, “thật điên rồ khi để ý nghĩ về đàn ông xen vào giữa hai bà cháu. Vậy giờ, ta sẽ tuyên bố lời thề mà cháu cũng vậy đi. Bởi ta mong một ngày nào đó bọn ta sẽ dạo bước bên nhau trên thiên đường, nên ta xin thề chừng nào còn giơ được bàn tay phải lên, ta sẽ chẳng bao giờ ban phước lành cho bất kỳ cuộc hôn nhân nào của cháu, trừ phi là với ngài Hoàng thân.” Rosina nhìn ta tỏ vẻ chấp nhận như hồi còn bé thơ nhưng chẳng nói một lời. Ngày hôm sau hôn lễ xa hoa được cử hành.

“Một tháng sau ngày cưới Rosina đưa thỉnh cầu lên Đức Giáo hoàng xin hủy bỏ hôn lễ bởi lý do vợ chồng chưa động phòng.

“Đó là vụ bê bối vô cùng kinh khủng. Ngài Hoàng thân có vô vàn mối quan hệ còn con bé thì đơn thương độc mã, còn khá trẻ và non kinh nghiệm; nhưng con bé cứ khăng khăng không chịu lùi bước, rốt cuộc ai ai cũng bàn tán về chuyện này, và toàn thể mọi người đứng về phía nó.” Người ta không ưa ngài Hoàng thân, đa phần bởi thói hám lợi đáng tiếc của ông ấy; còn câu chuyện lãng mạn, cậu hẳn sẽ hiểu mà, lúc nào chả lôi cuốn tầng lớp thường dân. Bọn họ đi đến chỗ xem con bé như vị thánh, rồi cuối cùng lúc nó được giúp đỡ để lên đường tới Rome, dân chúng ở đó vây quanh con bé trên phố phường rồi tung hô như thể nó là prima donna(10)trong nhà hát opera. Ngài Hoàng thân đã hành xử như một tên hề khi sử dụng tầm ảnh hưởng để xua đuổi Mario rời bỏ Pisa, trong tình cảnh này chắc đó là điều dại dột nhất ông ta có thể làm, rồi ông ta nhạo báng nhà thờ và khiến quần chúng căm phẫn.

“Rosina quỳ mọp dưới chân Đức Giáo Hoàng với những tờ giấy xác nhận từ toàn thể bác sĩ và bà mụ ở Rome. Ngài Hoàng thân chết đứng như trời chồng khi nghe tin báo, suốt ba ngày trời chẳng thốt nên lời. Ông ta buộc phải đóng kín cửa sổ để không phải nghe tiếng rêu rao trên hè phố về Đức Mẹ Đồng Trinh Pisa, rồi chắc sẽ còn cắn bật cả móng tay khi hình dung ra cảnh hạnh phúc của đôi trẻ - về chuyện này thì ta tin là ông ta rành rẽ lắm - bởi ngay lập tức con bé có được thư của Đức Giáo Hoàng bác bỏ cuộc hôn nhân đó.

“Trong quãng thời gian đó, suốt ngày ta phải nghe phong phanh người ta nhắc đến tên nó, ta cự tuyệt gặp nó, và gắng không nghĩ về nó. Mà còn lại gì trên đời khi tước đoạt khỏi tâm trí một bà già những điều bà ta luôn tâm niệm suốt mười bảy năm, khi bà ta không muốn nghĩ về chúng nữa?

“Hai tháng trước ta nghe được tin cháu gái ta sắp sinh em bé. Dẫu đã chuẩn bị sẵn tinh thần cho chuyện này, nó vẫn như thể cú đòn chí tử giáng vào ta. Gần như khiến ta chết lặng. Ta nghĩ về mẹ nó và lời thề nguyền của ta. Ta chẳng còn tin tưởng vào thánh thần nữa. Hình bóng Rosina cứ hiện ra trước mắt ta cả ngày lẫn đêm như lúc con bé trong nhà nguyện, và cõi lòng ta tràn ngập nỗi chua xót bởi thật không phải khi bắt một người đàn bà phải cam chịu suốt đời như ta. Rốt cuộc là ta từ bỏ ý nghĩ về thiên đường, bởi ta nghĩ rằng cả trăm năm cũng không đáng bằng một tuần đến nhà con bé tại Ý. Suốt thời gian dài ta ốm yếu chưa đi được, mãi tới hôm qua ta mới khởi hành đi Pisa.

“Bây giờ, hỡi cậu bạn thân mến của ta, cậu đã nghe toàn bộ câu chuyện, và ta để tùy cậu suy ngẫm về những chuyện ý trời đã định.”

Lúc này bà im bặt hồi lâu. Khi ấy, sợ có chuyện chẳng lành, chàng ngước nhìn gương mặt bà, nhận ra nó đã gục xuống. Người bà có vẻ rúm ró, mà dưới hàng mi bợt bạt, ánh mắt sáng ngời vẫn đổ dồn về gương mặt chàng.

“Ta sẵn sàng lìa bỏ thế gian này,” bà nói. “Mà lúc này ắt hẳn nó đi guốc trong bụng ta cứ như ta hiểu thấu nó vậy. Bọn ta chẳng còn gì mà nói với nhau nữa. Mà lạ lùng sao trong thâm tâm ta vẫn cảm thấy lưu luyến vô cùng, vẫn còn nặng lòng với, Carlotta de Gampocorta già cả này, kẻ sắp khuất núi hoàn toàn, mà ta lại chẳng thể để bà ta ra đi mà không trao cho bà cơ hội được hội ngộ, để tha thứ, cho những kẻ làm tổn thương mình. Mà liệu cậu sẽ - ở vào tuổi ta thì gàn dở lắm. Cậu sẽ đi tìm nó về cho ta chứ?”

Cánh tay trái của bà nhấc lên khỏi tấm chăn như thể gắng với đến bàn tay chàng. Augustus chạm vào những ngón tay lạnh ngắt. “Cháu sẽ làm theo ý bà, thưa Quý bà,” chàng nói. Bà ta trút tiếng thở dài rồi khép mắt lại. Chàng vội vã đi kiếm vị bác sĩ, được người ta gọi đến từ trong làng.

Chàng hạ lệnh cho gia nhân sửa soạn mọi thứ sẵn sàng để sáng mai khởi hành thật sớm, mà vì còn muốn gửi lá thư của mình trước khi rời đi, thế nên chàng lại cầm lấy nó để viết nốt. Đọc lại những dòng suy ngẫm về cuộc đời, chàng nghĩ rằng vẻ u ám của chúng có lẽ khiến người bạn Karl tốt bụng lo âu, vậy nên chàng cầm bút điền thêm hai dòng thơ từ Faust của Goethe, đoạn trích yêu thích của người bạn, mà biết bao lần hồi còn ở Ingolstadt, nó được dùng để khép lại cuộc đàm đạo giữa hai người:

Một người tốt, trong khát vọng tối tăm

Vẫn ý thức được con đường chính nghĩa...(11)

Thoáng mỉm cười, chàng dán kín phong thư.

IV. NỖI SẦU MUỘN CỦA NGƯỜI THIẾU NỮ

Tại tửu quán tiếp theo trên đường đi - cũng là chặng cuối trước khi tới Pisa, xung quanh tấp nập ngựa xe, người qua lại vây quanh những dinh thự, khiến cho người ta cảm nhận ngay được bầu không khí của vùng ven đô thành lớn - một cỗ xe ngựa nhỏ tiến ngay đến trước mặt Augustus, một cậu thiếu niên mảnh khảnh khoác tấm áo choàng rộng màu đen bước xuống cùng với lão quản gia trông như thể nhân vật Pantalone(12). Trời tối dần. Lác đác vài ngôi sao nhô lên trên nền trời xanh thẳm, làn gió nhẹ đưa lan tỏa khắp nơi. Augustus có cảm giác được hoà mình vào bầu không khí rộn ràng của lữ khách đích thực trên đường. Chàng đi ngang qua hằng bao du khách trên hành trình hôm đó - cưỡi ngựa hay lừa, ngồi trong xe ngựa, bò hay la kéo – dường như bọn họ đều tìm thấy phương hướng trong cuộc đời, sẽ lạ lùng thay nếu chẳng có lối đi nào dành cho chàng. Ánh đèn đường, tiếng huyên náo, mùi củi đốt, mùi dầu mỡ tỏa ra từ tòa nhà này khiến chàng thấy dễ chịu. Bầu không khí nước Ý cơ hồ tràn xuống từ miệt núi non, băng qua sông hồ để về đây miên man trên gương mặt chàng.

Osteria này ngày xưa vốn là nhà nghỉ thuộc về một biệt thự lớn; nó có một gian buồng rộng rãi khang trang với nhiều bích họa vẽ trên tường. Vừa bước vào, chàng thấy lão chủ quán cùng hai người bồi bàn đương bày biện bàn ăn đặt cạnh khung cửa sổ, đúng vào lúc bọn họ đương trao đổi sôi nổi, ông lão tách mình ra khỏi chốn đó để ra chào người khách và cam đoan với chàng rằng lão sẽ làm mọi điều để khiến chàng hài lòng. Mà chẳng hiểu sao, toàn thể các vị khách quý đều đang trên đường đến nơi này cùng lúc, khiến cho ước muốn gìn giữ renommé(13)khiến lão hơi rối trí. Bởi Hoàng thân Potenziani sẽ xuất hiện trong vòng nửa giờ nữa, đi cùng ông ta còn có anh bạn trẻ tuổi, Hoàng thân Giovanni Gastone. Đấy là những người sành sỏi về ẩm thực, và bọn họ đã gọi món thịt chim cút, nhưng người đầu bếp lại mắc lỗi trong lúc chế biến. Augustus hỏi có phải cậu thiếu niên chàng gặp ngay khi vừa đến là Hoàng thân Giovanni không. Ôi trời, không phải đâu, lão nói, chắc chắn phải là vị khách giàu sang kiêu kỳ hơn nữa kia. Mà có lẽ Quý Ông đây từng nghe nói đến Hoàng thân Nino rồi chứ? Kiểu thanh niên như anh ta người ta không thể tìm thấy ở đâu bên ngoài xứ Tuscany. Hồi còn bé tí vẻ đáng yêu đã khiến cậu trở thành hình mẫu vẽ Chúa Hài đồng trên bức họa trong thánh đường. Cậu ta đi đến đâu cũng được mọi người yêu mến. Mà anh ta yêu xứ sở này, người con đích thực của xứ Tuscany. Mặc cho cậu được người mẹ giàu tham vọng gửi đến triều đình Viên và St. Petersburg, mà khi trở về cậu ta không muốn nói bằng tiếng nước ngoài trừ lời ca của những bậc đại thi hào. Palazzi(14)của cậu vận hành theo phong cách truyền thống của người Tuscan: cậu chỉ cho phép dàn nhạc chơi nhạc Ý; cậu tham gia vào các cuộc đua ngựa lâu đời; rồi sau khi hoàn thành vụ thu hoạch nho, là đến mùa lễ hội - đó là lúc các điệu nhảy cổ xưa được trình diễn, từ trong các ngôi làng người trinh nữ ép nước nho, phơi trần mình, và vị improvvisatori(15)kể những câu chuyện dân gian – gợi lại những tháng ngày hạnh phúc xa xưa.

Với tấm khăn nhờn mỡ vắt trên tay và cặp mắt đen ti hí dõi theo nhất cử nhất động của đám bồi bàn, ông lão vẫn giữ được vẻ linh hoạt khiến vị khách ngoại quốc thích thú bị cuốn hút theo. Chẳng phải Hoàng thân Nino từng, khi một ca sĩ người Đức dám cả gan xuất hiện trong vở nhạc kịch của Cimarosa(16), Ballerian Amante, xua đuổi anh này rời khỏi sân khấu để đích thân lên đảm nhiệm vai hát chính khiến cả khán phòng say sưa đó sao? Nói tới phái đẹp - lúc này gương mặt bè bè của người chủ quán dường như nhíu lại, tập trung vào ý muốn diễn đạt - chắc bản thân Quý Ông cũng hiểu mà, một khi bọn họ quyết chi theo đuổi đàn ông thì anh ta còn làm gì được nữa? Vậy mà thậm chí trong chuyện này cậu cũng chứng tỏ mình là người con thực thụ của quê hương. Bởi đáng lẽ cậu đã cưới một công nương nước Áo, và chính em gái Sa Hoàng si mê cậu hồi còn ở triều đình St. Petersburg, mà cậu lại trích dẫn bài Bacco in Tuscany của Redi(17) tài hoa, ý nói rằng có lẽ chỉ có những thùng rượu Tuscany mới cần rên siết dưới bàn tay mơn trớn của cậu thôi. Người ta còn bảo rằng các đức lang quân xứ Tuscany chẳng phải lúc nào cũng dương dương tự đắc như người ta tưởng, bởi đàn bà khi đã ngã vào lòng Hoàng thân Nino thì sau đó chẳng bao giờ hạ cố rước thêm người tình nữa, rồi còn thế này, một quý cô kiều diễm, sau khi bị cậu rời bỏ, sẽ lại yên ổn tìm về với đức ông chồng cùng những kỷ niệm đã qua. Điều vô vàn đáng tiếc là cái cách cậu vung vãi tài sản gia đình, thậm chí người mẹ phải gửi gắm cậu đến tìm kiếm lòng hảo tâm của Hoàng thân Potenziani lớn tuổi, người có tiền cho vay. Người ta kháo rằng gần đây cậu đã thay đổi. Cậu được cho là đã nói rằng phép màu đã gây khó dễ cho cậu và khiến cậu tin vào phép màu. Người ta còn cho rằng Bà hoàng được phong thánh Mathilda(18), người bảo trợ cho dòng họ nhà cậu, đã hiện về gặp cậu trong mơ và khiến trái tim cậu quay lưng lại với đời. Đúng lúc này một người hầu bàn mắc sai sót nghiêm trọng trong việc bày biện bàn ăn khiến lão, như thể choàng tỉnh khỏi dòng suy nghĩ, vội cắt ngang cuộc chuyện trò. Chốc lát sau lão quay lại, mỉm cười không nói gì, đứa đến ly rượu theo yêu cầu của Augustus, gập người cúi chào rồi rời đi.

Hai vị linh mục già cầm ly vang ngồi cạnh những viên than hồng bên lò sưởi, ánh lửa chiếu lêntrên tấm áo chùng đen bóng, còn cậu thiếu niên điều khiển cỗ xe ngựa nhỏ đương suy tư nhâm nhi tách cà phê lão gia nhân mang đến, ngồi trên bục ngay dưới bức họa các thiên thần đến thăm Abraham. Thân hình trẻ trung của cậu thanh thoát tới mức khiến Augustus, luôn luôn là người ái mộ cái đẹp, nhận thấy nơi gương mặt trầm ngâm trong trẻo của cậu hao hao như anh bạn Karl hồi nhỏ, phát hiện ra cặp mắt vẩn vơ của mình cứ ngoái lại nhìn. Khi lão quản gia , quay lại, bẩm báo chuyện đôi co giữa người giữ ngựa của cậu thiếu niên và của chàng trong khi chọn chuồng ngựa, Augustus tận dụng cơ hội này để hỏi thăm cậu vài câu về đường đi Pisa, khẩn nài cậu uống một ly vang với mình. Cậu thiếu niên nhã nhặn từ chối, bảo rằng cậu chưa bao giờ uống rượu, rồi khi nhận ra Augustus là người ngoại quốc, không thông hiểu đường đi lối lại, cậu ngồi xuống bên cạnh chàng một lúc để trao đổi với chàng một vài thông tin cần thiết. Trong lúc chuyện trò, cậu thiếu niên tựa tay trái lên bàn, và Augustus, ngắm nhìn nó, trộm nghĩ điều hiển nhiên người ta phải nhận ra, khi tiếp xúc với người dân xứ này, đó là bọn họ đã sống ở trong cung điện cẩm thạch và viết về triết học từ cái thủa tổ tiên chàng còn sống trong những khu rừng rậm rạp, tự đẽo đá làm vũ khí, khoác lên mình bộ lông gấu sau khi uống cạn dòng máu nóng của nó. Để hình thành nên cổ tay và bàn tay được như thế này chắc chắn phải mất cả ngàn năm, chàng ngẫm ngợi. Ở Đan Mạch, phần cổ tay và mắt cá của mọi người thường đầy đặn, bạn càng tiến lên miệt cao, chúng càng chắc nịch.

Cậu thiếu niên chuyển sang thích thú khi biết được rằng Augustus đến từ Đan Mạch, bảo với chàng rằng chàng là người đầu tiên đến từ quê hương của Hoàng tử Hamlet(19) cậu từng gặp. Cậu hóa ra biết rành rọt về vở bi kịch Anh này, trò chuyện như thể Augustus bước thẳng ra từ cung điện nhà Vua Claudius(20). Vẻ thanh nhã kiểu Ý ngăn không cho cậu trú ngụ trong những màn bi kịch ấy, như thể Ophelia(21) là người thân mới thất lạc gần đây của cậu thiếu niên kia, mà cậu trích dẫn lời độc thoại đó mới lôi cuốn làm sao, rồi còn nói rằng cậu thường tưởng tượng ra cảnh mình đặt chân tới Elsinore(22), đứng trên đỉnh cheo leo của vách đá nhô ra khỏi chân núi chìm dưới biển khơi. Augustus không muốn tiết lộ với cậu rằng Elsinore khá là bằng phẳng, vậy nên thay vào đó chàng hỏi liệu cậu có bao giờ làm thơ không.

“Ôi trời, không đâu ạ,” cậu thiếu niên nói, lúc lắc mái tóc xoăn nâu mềm mại, “Em cũng đã từng, nhưng từ một năm trước em thôi rồi.”

“Em gặp chuyện gì à, ta nghĩ,” Augustus nói, mỉm cười. “Thi ca hẳn là một trong những lạc thú trên đời, giúp chúng ta tồn tại trong thế gian đơn điệu này.”

Cậu thiếu niên dường như cảm thấy như thể được tiếp xúc với một người thân của chàng Hoàng tử Đan Mạch bất hạnh, cậu trở nên cởi mở với người lạ vì lẽ đó.

“Có chuyện xảy đến với em,” cậu nói sau hồi im lặng, “nên em chẳng thể quay về lại thi ca được nữa. Em từng viết cả bi kịch lẫn hài kịch, mà giờ cả hai cũng chẳng còn hợp với em nữa.” Lại tiếp một khoảng lặng, cậu nói tiếp: “Giờ thì em đang trên đường tới Pisa để nghiên cứu thiên văn học.”

Điệu bộ thân thiện và nghiêm túc của cậu thiếu niên khiến Augustus cảm thấy bị thu hút, bản thân chàng hồi ở Ingolstadt từng bỏ nhiều thì giờ để nghiên cứu các vì sao. Bọn họ trò chuyện một lúc về chúng, chàng kể cho cậu thiếu niên nghe về nhà thiên văn học Đan Mạch vĩ đại Tycho Brahe(23) đã đề đạt xây dựng tại Augsburg cung đo độ bán kính gần sáu mét và quả địa cầu đường kính một mét rưỡi.

“Em muốn nghiên cứu thiên văn,” cậu thiếu niên nói, “bởi em chẳng thể chịu được suy nghĩ về thời khắc. Cảm giác như thể chốn tù đày đối với em vậy, và giả như em có thể thoát khỏi nó hoàn toàn em nghĩ em sẽ được hạnh phúc.”

“Bản thân ta từng nghĩ thế đấy,” Augustus trầm ngâm, “và ta vẫn còn nghiền ngẫm rằng giả như chỉ một tích tắc thoáng qua nào đó trong đời ta, kể cả khi bản thân chúng ta gọi đó là tột cùng hạnh phúc, người ta có bảo với ta rằng nó kéo dài mãi mãi, thì chúng ta rồi cũng sẽ thấy nó đang đẩy đưa chúng ta đến, chẳng phải cõi hạnh phúc vĩnh hằng, mà chỉ là chốn khổ đau bất tận.” Chàng u buồn hồi tưởng về những suy ngẫm bấy lâu nay bên trong chàng lại tìm về với chàng ngay vào khoảnh khắc nào đó trong đêm tân hôn. Cậu thiếu niên dường như cũng mải miết theo dòng suy nghĩ của chàng với niềm cảm thông.

“Em gặp phải chuyện không may, thưa Signore(24),” một lát sau cậu thiếu niên lên tiếng, gương mặt trẻ trung trông có vẻ nhợt nhạt và ánh mắt u tối hơn trước, “khiến cho tâm trí em lúc nào cũng hồi tưởng về chỉ một thời khắc duy nhất xảy đến trong đời em. Trước thời khắc đó em thường thoải mái khi nghĩ về cả quá khứ lẫn tương lai, cũng như bản thân hiện tại, mà thời gian như thể con đường băng qua những khung cảnh dễ chịu, ở trên đó em có thể rong ruổi đây đó tùy thích. Mà giờ đây em chẳng thể từ bỏ dòng suy nghĩ của em ra khỏi chính thời khắc ấy. Từng giây phút của nó dường như còn lớn lao hơn toàn bộ phần đời còn lại của em. Em phải thoát ra khỏi nó để tới phương trời nào thời gian không tồn tại. Em biết,” cậu nói, “có người đề ra ý niệm về cõi vô tận trong tinh thần, như chúng ta thường hay tìm trong niềm tin tôn giáo, như thể chốn trú ngụ thiện lành, mà dẫu em gắng kiếm tìm mà chẳng có ích gì với em - trái lại, ý nghĩ về quyền năng tối thượng của Chúa, ý chí tự do của con người, thiên đường và địa ngục, hết thảy đều đưa lại cho em những suy nghĩ mà em chỉ muốn thoát khỏi chúng. Em muốn hướng tới cõi vô hạn của không gian, và từ những điều em nghe được, có vẻ như đối với em, những cung đường dành cho các hành tinh và ngôi sao, quỹ đạo và vòng quay của chúng nằm trọn trong không gian vô hạn ấy, ắt hẳn chứa đựng quyền năng để hoán cải tâm trí ta tiến vào những con đường mới. Ngài có nghĩ vậy không, thưa Signore?”

Augustus nghĩ về một thủa, không xa lắm, khi chính chàng cảm thấy những thiên thể kia mới chính mái nhà đích thực. “Ta nghĩ,” chàng buồn bã nói, “cuộc đời chứa đựng lực hút trọng trường cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Điền sản, đàn bà....” Chàng ngó ra ngoài khung cửa sổ. Trên nền trời xanh thẳm của buổi tối mùa xuân, vì Sao Kim nhô lên, lấp lánh như kim cương.

Cậu thiếu niên quay về phía chàng. “Chẳng lẽ ngài,” cậu nói, “thực sự nghĩ rằng em là đàn ông à? Không phải đâu ạ, xin ngài thông cảm, em rất vui vì mình không phải là thế. Dĩ nhiên em hiểu mà, việc lớn thì phải tới tay đàn ông, mà sao em vẫn nghĩ thế gian này hẳn sẽ là chốn yên bình hơn nếu đàn ông đừng thường xuyên xông vào phá nátnhững điều chúng ta trân quý.”

Augustus trở nên bối rối khi phát hiện ra chàng vừa ứng xử với mộtngười thiếu nữ mà như thể trước mặt cậu thiếu niên, mà chàng chẳng biết phân bua thế nào, bởi làm sao mà chàng biết được. Chàng vội vàng giới thiệu bản thân và hỏi rằng liệu chàng có thể giúp đỡ được gì cho chuyến hành trình của cô không. Cô gái, mặc dù vậy, chẳng may may thay đổi phong thái trước mặt chàng, dường như chẳng để tâm tới bất kỳ sự thay đổi nào trong thái độ của chàng đối với mình, vốn do lời tiết lộ của cô gây nên. Cô giữ nguyên tư thế, đôi chân mảnh dẻ vắt chéo dưới tấm áo choàng và đôi bàn tay đan vào nhau tựa lên một bên đầu gối. Augustus nghĩ rằng chàng hiếm khi trò chuyện với người phụ nữ trẻ tuổi nào mà chủ đích chính trong giao thiệp lại không phải là tìm cách gây ấn tượng về bản thân trước mặt chàng, chàng suy ngẫm rằng ắt hẳn điều đó nhìn chung khiến cho cuộc đối thoại với phụ nữ trở nên ngượng nghịu và buồn tẻ đối với chàng. Cái vẻ thân thiện và tin tưởng mà thiếu nữ này dành mối quan tâm đến cho chàng, dường như không mang lại bất kỳ suy nghĩ nào như điều chàng nghĩ về phụ nữ, cơ hồ với chàng nó thật lạ lẫm và ngọt ngào, như thể chàng đột nhiên nhận ra chàng đã suốt đời đi tìm kiếm phong thái đó ở người phụ nữ. Chàng ao ước giờ đây bản thân mình có thể thoát khỏi cái lối ăn nói kiểu cách trong cuộc trò chuyện giữa nam và nữ.

“Thật đáng buồn thay,” chàng trầm ngâm nói, “em chắc chưa hiểu mấy về bọn ta, bởi ta cam đoan rằng hết thảy đàn ông em từng gặp đều gắng làm hài lòng em. Em sẽ không định nói với ta rằng tại sao lại vậy chứ? Bởi nhiều lần ta gặp phải chuyện có quý cô bảo rằng ta không làm cho cô ấy hạnh phúc, và rằng cô ấy chỉ mong lúc ta và cô ấy chết đi, đó mới là lúc ta gắng hết sức khiến cô ấy hạnh phúc. Trải qua bao năm tháng từ cái thủa Adam và Eve” - chàng ngước nhìn quanh gian buồng tới khi chạm phải bức tranh vẽ hai vị này - “những người xuất hiện đầu tiên trong khu vườn ấy, dường như điều nuối tiếc lớn nhất là chúng ta chẳng biết làm gì hơn nữa để khiến đối phương hài lòng.”

“Thế sao ngài không hỏi cô ấy?” cô gái nói.

“Phải,” chàng đáp “mà dường như đó là định mệnh của bọn ta, bọn ta chắc chẳng bao giờ đề cập đến những vấn đề đó trong lúc bình tĩnh cả. Với bản thân, ta nghĩ rằng phụ nữ, vì lý do nào đó, sẽ chẳng tiết lộ cho bọn ta hay. Bọn họ không muốn được thấu hiểu. Bọn họ muốn châm ngòi chiến sự. Mà ta ước ao dù chỉ một lần, trong suốt mọi thời đại giữa đàn ông và đàn bà, những viên đại sứ của hai giới có thể mang đến tinh thần thân thiện, để đi đến chỗ thấu hiểu lẫn nhau. Quả đúng là,“ chàng nói tiếp sau chốc lát, “ta đã từng có lần gặp, ở Paris, một mụ đàn bà, ả kỹ nữ tuyệt vời, kẻ có thể, đóng tròn vai đại sứ ấy. Mà chắc em sẽ chẳng chịu trao cho ả lá ủy nhiệm thư của mình hay phục tùng theo quyết định củaả. Ta thậm chí còn không biết liệu em có coi ả là kẻ bội phản lại nữ giới các em không nữa.”

Cô gái suy nghĩ hồi lâu về điều chàng vừa nói, “Em đồ rằng,” cô lên tiếng, “có khi ở đất nước ngài cũng có những buổi tiệc tùng, khiêu vũ và conversazioni(25) nhỉ?”

“Phải,” chàng nói, “bọn ta có chứ.”

“Thế hẳn ngài biết,” cô chậm rãi tiếp tục, “vai trò của vị khách thì khác so với nam hay nữ gia chủ, thế nên người ta không thể mong đợi những điều tương tự khi tư cách hai bên khác nhau?”

“Ta nghĩ em nói đúng”, Augustus nói.

“Còn Đức Chúa,” cô nói, “vào lúc người tạo ra Adam và Eve” - cô cũng trông thấy bọn họ khi lướt mắt quanh gian phòng - “thì đã sắp đặt để đàn ông đảm nhiệm, trong những chuyện thế này, vai vị khách, còn đàn bà thì ở vai gia chủ. Bởi thế đàn ông đoạt lấy tình yêu một cách hời hợt, bởi danh dự và phẩm giá của nhà anh ta không can hệ gì vào chuyện này. Mà hẳn rồi, ngài cũng có thể là vị khách đối với nhiều người, những người ngài chẳng bao giờ mong họ là gia chủ. Thế bây giờ, hãy nói cho em nghe, thưa Bá tước, điều vị khách muốn là gì?”

“Ta tin rằng,” Augustus nói sau một hồi suy nghĩ, “nếu chúng ta chấp nhận, bởi ta nghĩ chúng ta nên vậy lúc này, không xét đến loại khách lỗ mãng, kẻ đến chỉ để phè phỡn, đoạt lấy những gì có thể lấy rồi bỏ đi, thì điều vị khách muốn trước tiên là được thoải mái, thoát khỏi đời sống buồn tẻ đơn điệu thường nhật. Tiếp theo là vị khách lịch thiệp ấy muốn nổi bật lên, đề cao bản thân và gây ấn tương về chính bản thân mình với mọi người xung quanh. Còn điều thứ ba, có lẽ, anh ta muốn tìm thấy lời biện hộ nào đó cho sự tồn tại của mình. Mà bởi em đề ra chuyện này thú vị quá, hỡi Signora(26), hãy nói ta nghe xem: thế vị nữ gia chủ thì muốn gì?”

“Vị nữ gia chủ ấy,” người thiếu nữ trẻ đáp, “muốn được nhận lời cảm tạ.”

Đúng lúc ấy tiếng náo động bên ngoài khiến cho cuộc trò chuyện của bọn họ buộc phải chấm dứt.

V. CÂU CHUYỆN VỀ KẺ GIẾT THUÊ

Lão chủ osteria tiến vào trước tiên, bước đi giật lùi, hai tay cầm hai giá đỡ nến ba ngọn, với sự uyển chuyển và thanh thoát đáng kinh ngạc đối với người già. Theo sau lão là một đoàn gồm ba quý ông, những vị khách dành cho bàn ăn đã bày biện, hai người đầu tay trong tay bước đi. Sự xuất hiện của bọn họ khiến toàn bộ gian buồng đổi khác trong khoảnh khắc, đi cùng bọn họ là hằng bao ánh nến, tiếng trò chuyện rôm rả và sắc màu – thậm chí là choán lấy hết cả, bởi hai trong số bọn họ vô cùng to béo.

Một người thu hút sự chú ý của Augustus, bởi chàng luôn bị lôi cuốn theo bất kể ai xung quanh mình, đó là người đàn ông chừng năm mươi tuổi, thân hình lực lưỡng, vô cùng đẫy đà. Ông ta ăn mặc vô cùng thanh lịch trong sắc phục đen, làm nổi bật phần áo trong bằng vải lanh trắng, đeo những chiếc nhẫn nặng trĩu và trên ve cổ áo đính viên kim cương chói lóa. Mái tóc ông ta nhuộm màu đen tuyền, gương mặt được trang điểm và đánh phấn. Dù to béo và bị nhiều thứ gây trở ngại, dáng vẻ của ông ta uyển chuyển khác thường, cứ như thể ông ta sở hữu cho riêng mình nhịp điệu đi đứng ấy. Nói chung thì, Augustus nghĩ, nếu như người ta có thể bỏ đi hoàn toàn cách suy nghĩ thông thường về ngoại hình của con người, ông ta chắc cũng là một đối tượng vô cùng hào hoa và làm tôn lên vẻ lộng lẫy ở bất cứ nơi đâu, có khi còn trở thành, biết đâu đấy, biểu tượng uy nghi và quyền lực nhất. Giờ thì ông ta lên tiếng, vừa sang sảng mạnh mẽ lại vừa dễ chịu đến lạ lùng,

“Ôi trời, tuyệt diệu, tuyệt diệu, hỡi Nino của ta,” ông ta nói, “thế là bọn ta lại được bên nhau rồi. Mà ta vừa nghe tin tức về cậu cuối tuần vừa rồi, làm cách nào cậu mua được bức Danaë(27) của Correggio thế, và còn cả mười sáu con ngựa khoang từ xứ Cascine, để lắp vào cỗ xe ngựa nữa chứ.”

Chàng thanh niên ông ta nhắc đến và giữ chặt tay dường như chẳng để tâm đến ông. Khi trông thấy, Augustus hiểu được rằng vì sao dân chúng xứ này tôn vinh vẻ đẹp của cậu ta. Chàng đã đi thăm nhiều gian triển lãm tranh gần đây, và nghiệm ra rằng bất kể là là những vị thánh trẻ tuổi như Sebastian hay Thánh John Tẩy Giả, sống nhờ vào mật ong hay châu chấu hoang dã, hay thậm chí đến cả vị thiên thần nhỏ tuổi thoát ra từ ngôi mộ hé mở, chắc có lẽ nhập vào hình hài cậu ta, khoác lên bộ trang phục thời nay với vẻ thanh lịch và hồn nhiên, và trông sẽ ra thế này. Cậu ta thậm chí còn có màu tóc, sắc mặt và ánh mắt nâu đặc trưng nổi bật điều gì đó như lớp nước bóng trên tranh cổ., ngoài ra cậu còn mang thần thái của kẻ chẳng để tâm đến điều gì cả, thức dĩ nhiên chỉ có trên thiên đường, nơi con người ta không cần phải suy tư.

Người thứ ba trong đoàn là chàng trai cao lớn, ăn mặc cũng vô cùng sang trọng, với mái tóc quăn vàng hoe và gương mặt ửng đỏ có vẻ nhút nhát, dáng điệu đó lan xuống chiếc cổ to bè khiến chẳng thể nhận ra chiếc cằm bạnh. Anh ta chăm chú lắng nghe lời ông già và không bao giờ rời mắt khỏi ông. Cả ba ngồi xuống dùng bữa, trong ánh sáng tỏa ra từ những ngọn nến.

Người thiếu nữ quan sát đoàn người vừa đến trong giây lát, rồi bật dậy, trùm tấm áo choàng phủ lên người, rồi rời khỏi gian buồng. Augustus dõi theo cô đi ra ngoài, ở đó lão gia nhân của cô đợi sẵn cùng cây nến.

Khi quay trở lại để dùng bữa tối vừa dọn lên, chàng ngồi xuống với món gà sống thiến cùng chiếc bánh phết kem hồng. Bữa tối của đoàn người trên chiếc bàn lớn kia ồn ào quá khiến chàng không tập trung suy nghĩ được và cứ hết lần này đến lần khác phải đảo mắt hướng về phía họ. Chàng chú ý đến ông già, suốt cả buổi tiếp rượu những vị khách của mình, bản thân ông chỉ uống nước chanh, thế mà vẫn theo kịp nhịp độ tinh thần đã bốc lên của bọn họ, như thể bên trong ông có men say tự nhiên nào đó cứ thế trút ra mà chẳng cần sự trợ giúp bên ngoài. Khi đã lên tiếng, ông ta nói một thôi một hồi, nó lọt vào tai của Augustus khi ông ta đương kể cho những người kia nghe một câu chuyện.

“Tại Pisa này,” ông ta nói, “Ta đây, nhiều năm về trước, từng ở đây vào cái thời nhà thơ Monti(28) huy hoàng của chúng ta, rút súng ra và bắn gục Monsignor(29) Talbot. Nó xảy ra trong một bữa tối, hệt như bọn ta lúc này với sự góp mặt của chỉ ba người. Tất cả nổ ra từ cuộc tranh luận về chuyện đày xuống địa ngục vĩnh viễn.

“Monti, lúc ấy vừa hoàn thành tác phẩm Don Giovanni, đôi khi lại chìm đắm trong sầu muộn, chẳng chịu ăn uống nói năng gì, nên Monsignor Talbot mới hỏi ông ta xem có chuyện gì vậy, băn khoăn vì sao nhà thơ không vui vẻ sau khi đạt tới thành công vang dội như thế. Thế là Monti hỏi ngược lại phải chăng ông ta không nghĩ đến gánh nặng đè lên tâm trí của kẻ vừa nhào nặn lên con người bị thiêu đốt muôn đời dưới địa ngục. Talbol cười vào mặt ông ta rồi tuyên bố rằng điều đó chỉ xảy đến với con người ngoài đời thực. Thế là nhà thơ gào lên, hỏi ông ta rằng thế Don Giovanni chẳng lẽ không phải là sự thực, rồi monsignore kia, vẫn cứ làm ra vẻ cười cợt khiến chuyện trở nên trầm trọng, ngả lưng ra sau nghế, giải thích rằng ông ta muốn nói đến những sinh linh quả thực là bằng xương bằng thịt. “Bằng xương bằng thịt!” nhà thơ gào lên. “Sao ông có thể nghi ngờ anh ta có bằng xương bằng thịt hay không khi chỉ tính riêng ở Tây Ban Nha có thể tìm thấy một ngàn lẻ ba quý cô chứng thực cho điều đó?” Monsignor Talbot hỏi rằng liệu nhà thơ có thực sự tin rằng bản thân mình là đấng tạo hóa với ý nghĩa giống như Thượng Đế không.

“Thượng Đế ư!” Monti gào lên, “Thượng Đế ư! Thế ông không biết rằng điều Thượng Đế thực sự muốn nhào nặn nên chính là Don Giovanni của ta, Odysseus của Homer, và cả chàng hiệp sĩ của Cervantes à? Rất có thể chính nhờ có bọn họ mà thiên đường và địa ngục mới được tạo nên, bởi ông không thể tưởng tượng được rằng Thượng Đế Toàn Năng sẽ còn mãi mãi về sau, vĩnh viễn muôn đời, cùng với bà mẹ kế của bọn ta hay Hoàng đế nước Áo à? Nhân loại, đàn ông và đàn bà trên thế gian, chỉ là tấm thạch cao của Thượng Đế, và bọn ta, người nghệ sĩ, là công cụ của người, để khi bức tượng bằng cẩm thạch hay bằng đồng hoàn thành, ngài đập bỏ hết thảy bọn ta đi. Khi qua đời chắc có lẽ ông sẽ tàn rụi như ngọn nến, chẳng còn gì để lại, còn trong những lâu đài vĩnh hằng kia sẽ là bước chân của Orlando, vở Kẻ Chán Đời(30) và Donna Elvira của ta. Đấy chính là ý đồ tạo tác của Thượng Đế, và giả như làm sao đó mà bọn ta chậm chạp khám phá ra điều đó, thì chúng ta là ai mà dám phê phán người, bởi vì bọn ta có hiểu được bất cứ điều gì về thời gian hay cõi vô tận đâu?”

Monsignor Talbot, dù bản thân là người ái mộ nhiệt thành với nghệ thuật, bắt đầu cảm thấy khó chịu về những quan điểm tà đạo như thế, buông lời quở trách nhà thơ. “Ôi trời, thế ông đi mà khám phá cho bản thân ông đi!” Monti gào lên, và đặt tay vào nòng súng lục, đã lên đạn sẵn, tựa lên mép bàn, rồi bắn thẳng vào vị monsignore, người ngồi đối diện với mình, khiến cho Đức Ông đổ gục trong vũng máu. Đây là vụ việc nghiêm trọng, bởi Monsignor Talbot đã phải trải qua ca mổ trầm trọng, suốt một thời gian dài ở trong tình trạng thập tử nhất sinh.”

Hai thanh niên, lúc này đã ngà ngà say, bắt đầu buông lời giễu cợt về ý niệm đó, nêu lên cho người kể chuyện vô vàn cách thức trở nên bất hủ mà ông ta có thể đạt được nhờ bàn tay của đủ loại thi nhân. Đến chỗ này, bọn họ đưa ra nhiều cái tên và lối biểu đạt mà Augustus không hiểu được; giọng nói của bọn họ cũng không được dứt khoát như ông già, thế nên chàng chỉ bắt đầu chú ý vào cuộc trò chuyện của bọn họ khi ông già lại một mình độc thoại,

“Đừng đừng, mấy thằng nhãi này,” ông ta nói, “ta còn những chuyện kể đáng để nghe hơn kia. Mà có lẽ là tốt cho các cậu nếu để tâm một chút về thế giới bên kia, có khi nó còn xua tan mối muộn phiền mới nhen lên trong lòng Nino yêu dấu của ta, vì chuyện đó khiến cả cái xứ này đau buồn, ta sẽ kể các cậu nghe thêm câu chuyện nữa.”

Ông ta ngả lưng ra sau ghế, và trong khi kể chuyện ông ta không đả động tới đồ ăn thức uống. Augustus để ý thấy rằng khi ông ta hành động như vậy thì anh bạn trẻ u uẩn ngồi bên cạnh, cũng làm theo tương tự, thành ra duy nhất trong ba người là chàng thanh niên tóc vàng hoe với gương mặt nhút nhát còn tiếp tục thưởng thức lạc thú cỗ bàn.

“Sống ở Pisa này, các cậu trai thân mến của ta,” ông già bắt đầu, “vào cái thời ông nội ta, có nhà quý tộc sở hữu địa vị cao quý và gia sản kếch xù, ông ta phải nếm trải chuyện đau buồn với một cậu bạn trẻ, kẻ được ông ta ban cho đủ mọi nghĩa tình, lại trở mặt với thói lật lọng quen thuộc của tuổi trẻ, bắt ông ta phải chịu nỗi sỉ nhục cùng cực, chuyện này, còn hơn thế, biến ông ta trở thành mục tiêu đàm tiếu trong mắt người đời. Nhà quý tộc là bậc triết gia, chẳng coi trọng thứ gì trên đời ngoài cõi thanh thản trong tâm hồn. Khi nhận ra chuyện này sắp phá hoại giấc ngủ yên bình của mình, và sẽ chẳng tận hưởng thêm chút lạc thú hay lấy lại sự cân bằng, chừng nào chưa đoạt được mạng kẻ thù trẻ tuổi kia, thế là ông quyết định ra tay. Mà ở vào địa vị và hoàn cảnh của ông lúc này, ông không tìm ra phương cách gì để đích thân thực hiện, vậy là điều đó xui khiến ông đến gặp một kẻ giết thuê trẻ tuổi ở chốn đô thành này.Thời đó, hạng người này vẫn còn kiếm ra được. Gã trẻ tuổi này bị dồn vào đường cùng, bởi bản thân lâm vào cảnh nợ như chúa chốm và ở vào tình thế túng quẫn ấy khiến hắn chẳng thể tìm ra lối thoát trừ phi kiếm được đám cưới hỏi nào đấy. Lão bạn của ông nội ta nói với hắn: ”Ta muốn mọi người sau khi xong xuôi chuyện này đều hoàn toàn mãn nguyện. Ta sẽ trả công cho ngươi một khoản ta nghĩ là xứng đáng để đánh đổi lấy cõi thanh thản trong tâm hồn, món vớ bẫm đấy. Hãy nghe theo lời ta, và ta sẽ xóa sách nợ nần cho ngươi, thậm chí kể cả là chuỗi hạt tràng san hô bé cỏn con của bà ngoại mà ngươi dám đem cầm.” Nghe vậy kẻ giết thuê chấp nhận, mọi chuyện giữa bọn họ được dàn xếp đâu vào đấy.”

Có con mèo lớn đương lởn vởn quanh gian phòng, bỗng nhảy phốc vào lòng ông già, người đang kể câu chuyện này. Chẳng ngó ngàng gì , ông ta cứ mải mê ve vuốt nó trong khi tiếp tục kể chuyện.

“Đồng hồ điểm đúng nửa đêm khi kẻ giết thuê bỏ ông ta ở lại, khi nhận ra rằng mình chẳng tài nào chợp mắt được đến khi chắc chắn rằng chuyện này đã ổn thỏa, ông ta thao thức trong buồng, chờ đợi gã trẻ tuổi này quay trở về, và cho dọn sẵn bữa tối thịnh soạn dành cho hắn. Ngay khi đồng hồ điểm một giờ gã trẻ tuổi tiến vào, trông như xác chết. “Kẻ thù của ta tiêu đời chưa?” nhà quý tộc hỏi. “Rồi,” kẻ giết thuê đáp. “Chắc chứ?” kẻ chủ mưu lên tiếng, tim bắt đầu đập thình thịch. “Chắn chắn,” kẻ giết thuê đáp, “Liệu hắn có tiêu đời hay không sau khi lĩnh ba nhát dao găm của ta đâm trúng tim, lút hết cả cán. Kẻ nào, như lời ngài nói, sau khi thoát khỏi chuyện này cũng đều hoàn toàn mãn nguyện. Giờ ta sẽ uống chai sâm panh cùng với ngài.” Thế là cả hai thoải mái dùng bữa cùng nhau. “Ngài biết không,” kẻ giết thuê nói, “điều vô cùng hối tiếc ta nghĩ đến là gì? Đó là thế này: tất cả bọn ta rồi sẽ trở thành những kẻ mắc căn bệnh hoài nghi vì chẳng khi nào chịu tin vào lời dặn dò của những người bà mộ đạo. Bởi thế nó khiến cho ta vô cùng hài lòng khi nghĩ rằng rồi cả ta và ngài nhất định sẽ bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn.”

“Nhà quý tộc sửng sốt, và lấy làm tiếc cho gã trai trẻ, bởi hắn trông như kẻ mất hồn. Ông ta dành vô vàn cảm tình cho hắn, gắng vỗ về hắn. “Chuyện này thật quá sức đối với ngươi,” ông nói. “Ta cứ nghĩ ngươi mạnh mẽ hơn cơ. Về cái chuyện đày xuống địa ngục, ta hiểu ý ngươi muốn giãi bày, và tin rằng rất có thể ngươi đúng đấy. Vụ sát nhân ngươi phạm phải đêm nay bản thân ta cũng phạm phải hằng bao lần trong tâm tưởng, và Kinh thánh nói rằng điều đó chẳng khác gì tự tay mình thực hiện. Mấy tay ngụy biên thậm chí còn có thể chứng minh vai trò của ngươi trong chuyện này là hoàn toàn không hiện hữu, người rõ ràng vẫn có thể gột rửa manh áo choàng bằng máu của con Chiên để làm trong sạch nó mà. Ngoài ra, ta phải nói cho ngươi về việc trả công, ta bù đắp cho nỗi giày vò ngươi phải gánh chịu và rủi ro mà ngươi phải đối mặt với luật pháp Pisa và người thân của kẻ thù vừa tiêu đời. Còn bù đắp cho tâm hồn ngươi, ta chưa hề nghĩ đến. Đề phòng chuyện rủi ro này, ta coi là vặt vãnh thôi, ta sẽ trả cho ngươi, thêm vào phần ngươi đã có, chiếc nhẫn này của ta.” Vừa nói ông ta vừa tháo chiếc nhẫn đính viên hồng ngọc lớn khỏi tay mình, viên ngọc vô cùng có giá trị, trao nó cho gã trai trẻ, hắn cười phá vào mặt ông ta như thể bọn họ chưa hề nói gì về những điều linh thiêng, rồi bỏ đi. Nhà quý tộc của chúng ta đi về giường, lần đầu tiên được ngủ ngon sau nhiều tháng, tâm niệm rằng điều mình mong mỏi rốt cuộc cũng đã xong, và còn vì chuyện mình đã đối đãi hào phóng với kẻ giết thuê.”

Câu chuyện kể tới đó thì bỗng con mèo leo qua mặt bàn, nhảy vào lòng chàng Hoàng thân trẻ tuổi. Như thể anh ta là hình ảnh phản chiếu, qua tấm gương soi, của người ngồi bên cạnh, anh ta bắt đầu âu yếm ve vuốt con thú trong khi ngả lưng ra sau ghế để lắng nghe.

“Mà số phận lại,” ông già tiếp tục, “khiến niềm tin của ông ta vào con người lung lay. Chỉ ít tuần sau, trong khi vẫn còn đương tận hưởng, như thể hồi xuân, những cuộc giao lưu bè bạn, âm nhạc và thắng cảnh quanh Pisa, thì ông nhận được thư từ người bạn ở Rome, người này viết để báo cho ông ta rằng kẻ thù của ông, người mà ông đã trả giá đắt để đoạt mạng, đương ở đó, tươi tắn hơn bao giờ hết, vô cùng được ngưỡng mộ trong xã hội Roma và triều đình Giáo hoàng.

“Bằng chứng cuối cùng về sự bội bạc của con người, và sự ngờ nghệch khi đặt niềm tin vào bè bạn hay kẻ làm thuê, đã giáng một đòn mạnh lên con người chằng bao giờ biết nghi ngờ ai này. Ông lâm bệnh và đau đớn suốt một thời gian dài bởi những cơn đau mắt và cánh tay phải, khiến cho ông buộc phải đến những bể tắm ở Pyrmont để phục hồi. Mà ta sẽ bỏ qua cái đoạn buồn thảm này. Duy có điều, bởi ông là người hay suy tư, ông bắt đầu xét đoán về tương lai bản thân và kẻ giết thuê như hồi bọn họ trao đổi trên bàn ăn tối hôm đó. Thực sự có phải, ông nghĩ, duy chỉ có cái ý định, thứ duy nhất đè nặng xuống cán cân, sẽ cứu rỗi hay trừng phạt chúng ta, còn thực thi hay không cũng vậy? Càng nghĩ về nó ông càng nhận ra rằng ắt phải là thế. Thậm chí có khi, ông nghĩ, cái ý định chỉ còn giữ được sức nặng chừng nào nó còn là ý định ngoài ra thì chẳng còn là gì nữa. Bởi thực thi xong rồi thì khát khao không còn nữa. Cách thức chắc chắc nhất để từ bỏ nỗi thèm khát người vợ lão hàng xóm, hiển nhiên rồi, là chiếm đoạt lấy ả, rồi thì bọn ta có thể yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho chúng về những điều ác ý chúng đối đãi với ta, chỉ khi nào chúng chết đi. Ông hồi tưởng ra mình đã dành những ý nghĩ tử tế thế nào về tên kẻ thù trẻ tuổi suốt quãng thời gian ngắn ngủi khi tin rằng hắn đã tiêu đời.

“Bởi thế, ông nghĩ, địa ngục rất có thể tràn ngập những kẻ không chịu thực hiện điều họ định làm. Sâu bọ gặm nhấm bọn này sẽ không bao giờ chết(31). Thế nên,” ông già nói, giọng đột ngột trở nên vô cùng chậm rãi và êm ái như mơn trớn, “khi đã đánh mất niềm tin vào bọn giết thuê, ông ta quyết định, trong tương lai, sẽ đích thân thực thi ý định của mình. Mà còn chuyện này,” ông ta tiếp tục nói bằng chính cái giọng êm ái ấy, “ông ta nghĩ rằng mình có lẽ cần phải biết, trước khi dẹp bỏ toàn bộ tấn bi kịch này ra khỏi tâm trí: Vậy là bao nhiêu thế, ông ta tự hỏi, kẻ giết thuê, kẻ đã nhận được khoản trả công hậu hĩnh từ mình, đã nhận từ đối phương để không thực hiện chuyện đó?”

“Thế đấy, hỡi Nino yêu dấu của ta, chuyện đến đây là hết rồi, và ta hy vọng không làm cậu phát chán đấy chứ. Cậu hẳn sẽ giúp cho ta một việc lớn lao nếu nói cho ta hay điều cậu nghĩ về nó.”

Một khoảng im lặng. Chàng Hoàng thân điệu bộ u uẩn rướn người về phía trước, đặt tay lên bàn để tì cằm, ngước nhìn về phía ông già. Động tác này chứa đựng điều gì rất giống con mèo anh ta đang ôm khiến Augustus thấy khá sửng sốt.

“Dạ vâng, xin ông thông cảm,” cậu nói, “quả thật tôi cảm thấy hơi chán, bởi tôi nghĩ câu chuyện của ông dài dòng quá, mà thậm chí còn chẳng có hồi kết. Hai ta phải tạo ra cái kết vào tối nay”.

Cậu ta với tay trái ra rót đầy cốc và nốc gần nửa. Rồi bỗng, bằng một cú hất văng nhẹ, như thể đã uống quá chén thành ra lỡ tay, anh ta quăng chiếc ly vụt qua mặt bàn vào thẳng mặt ông già. Rượu chảy xuống đôi môi đánh son và chiếc cằm thoa phấn ấy. Chiếc ly lăn vào trong lòng ông ta rồi rơi xuống sàn, vỡ tan ra.

Chàng thanh niên với mái tóc quăn vàng hoe thét lên. Anh ta nhảy dựng lên, giơ ra chiếc khăn tay viền đăng ten nhỏ, gắng lau vết rượu trên gương mặt người kia, trông nó như thể vấy máu. Mà ông già phương phi đó đẩy anh ta ra. Gương mặt ông ta trong khoảnh khắc đó thoáng bất động, như hóa đá. Rồi nó bừng lên, như thể từ bên trong, phát ra ánh rực lửa đắc thắng lạ lùng. Chẳng thể đoán định liệu có phải gương mặt ông ta thực sự biến sắc như vậy là vì đau hay không, mà đột nhiên nó tỏa ra thần thái của luồng sinh khí dâng trào. Khi kể chuyện ông ta trông thật già nua. Mà ấn tượng ông ta mang đến lúc này là nét thanh xuân hay trẻ thơ. Giờ Augustus mới nhận ra ông ta thực sự trông thế nào: ông ta mang cái vẻ tròn trịa đẫy đà, chứa đựng uy lực lớn lao đằng sau, cái vẻ của bức tượng thần Bacchus(32) cổ đại. Bầu không khí trong gian buồng chợt bừng lên với những tia sáng phát ra từ ông, như thể vị thần thủa xưa đột nhiên hiện ra, đội vành dây nho, đứng trước mặt người phàm. Ông ta cầm chiếc khăn tay đưa lên chấm miệng cẩn thận, rồi, nhìn vào nó, ông cất giọng trầm ngâm và êm ái, như lời nói của vị thần đối với con người, bởi nhận ra sức mạnh tự nhiên của mình quá lấn át bọn họ,

“Truyền thống nhà cậu, Nino ạ, ta biết,” ông ta nói, “phong cách savoir-mourir(33) tinh tế ấy.” Ông ta nhấp một hớp nước chanh để làm trôi hết vị rượu đọng trên miệng. “Cậu đúng là nhà phê bình kiệt xuất,” ông tiếp tục nói, “không chỉ về những bài hát xứ Tuscany các người, mà còn cho cả văn chương đương đại nữa. Chính xác là câu chuyện của ta có khuyết điểm: nó chưa có hồi kết. Lôi cuốn làm sao, hồi kết. Liệu ngày mai lúc bình minh cậu sẽ đến sân hiên sau tòa nhà này chứ? Ta biết chỗ đó; địa điểm tuyệt diệu.”

“Xin vâng,” Nino đáp, vẫn ngồi nguyên vị trí, cằm tựa trên tay. “Cảm ơn cậu,” ông già nói, “Cảm ơn cậu, anh bạn thân mến ạ. Và giờ,” ông ta tiếp tục bằng vẻ khá trịnh trọng, “nếu cậu cho phép thì ta xin phép nghỉ ngơi thôi. Ta chẳng thể,” ông ta nói, với cái liếc nhìn xuống chiếc quần vấy bẩn, “tiếp tục bầu bạn với cậu trong bộ dạng này. Arturo, đưa tay ngươi cho ta. Ta sẽ bảo anh ta quay lại để thu xếp với cậu, Nino ạ. Buổi tối an lành, ngủ ngon nhé!”

Khi ông ta rời đi bằng cách tựa vào tay của chàng thanh niên tóc vàng hoe, anh ta lúc này bợt bạt như xác chết và có vẻ như rơi vào hoảng loạn, còn chàng thanh niên kia ngồi bất động chốc lát, như thể cậu muốn ngủ gục trên bàn. Bỗng, quay sang, cậu ta nhìn thẳng về phía Augustus, sự hiện diện của con người này, cậu dường như chưa hề hay biết trước đó, bật dậy, tiến về phía chàng, và ngỏ lời chào hỏi vô cùng lịch thiệp. Cậu ta đi không vững nữa, mặc dù vậy, về thần thái, trông cậu dường như vẫn còn có thể tham gia vào bất kỳ vai diễn trong vở ballet nào.

“Thưa Signore,” cậu ta nói, “ngài vừa chứng kiến màn đôi co giữa bản thân tôi với người thân của tôi, Hoàng thân Potenziani, người mà tôi nhất định phải làm hài lòng. Liệu ngài có sẵn lòng, như một nhà quý tộc, ban cho tôi đặc ân đóng vai phụ tá vào sáng mai? Tôi là Giovanni Gastone, xứ Tuscany, cần sự trợ giúp của ngài.” Augustus bảo với chàng Hoàng thân rằng chàng chưa bao giờ tham gia vào một cuộc đọ súng và lúc này nghĩ đến chuyện đó khiến chàng thấy bất tiện.

“Tôi đáng lẽ phải vui khi được trợ giúp cho ngài mới phải,” chàng nói, “vậy mà tôi lại không thể không nghĩ rằng tốt hơn hết cuộc cãi vã như thế thì nên dàn hòa, giữa những người thân trên bàn ăn tối nữa chứ, một cách thân thiện, và chẳng lẽ ngài lại mong chiến đấu chống lại người đáng tuổi cha chú chẳng vì lý do gì cả à.”

Giovanni nở nụ cười vô cùng bình thản dành cho chàng. “Gạt lương tâm ngài sang một bên đi, thưa Bá tước,” anh ta nói, “Ngài Hoàng thân ấy một khi làm vào tình cảnh bị sỉ nhục thì sẽ chọn cách giải quyết bằng vũ khí. Nếu ngài từng sống ở Tuscany ngài hẳn sẽ nghe nói đến tài thiện xạ của ông ta. Còn nói về chuyện ông ta đã lớn tuổi, đúng là ông ta gấp đôi tuổi ngài với tôi, mà ngay cả thế nội lực bên trong ông ta như đứa trẻ so với bất kỳ ai trong bọn ta. Sẽ chẳng lấy gì làm lạ nếu ông ta sống tới hai trăm tuổi thì như bọn ta sống tới sáu mươi vậy. Những thứ khiến bọn ta héo mòn thì lại chẳng tác động gì tới ông ấy cả. Ông ta cừ khôi lắm.”

“Về điều ngài vừa nói” Augustus đáp lại, “dường như chẳng khiến cho tôi thấy cuộc đọ súng của ngài thêm hợp lẽ ở chỗ nào cả. Ông ta không có khả năng hạ được ngài phải không?”

“Không phải, không phải đâu,” chàng thanh niên nói, “mà ông ta là người thân thiết nhất của ta suốt hằng bao năm. Bọn ta muốn biết xem kẻ nào trong hai ta mới thực sự được Chúa yêu thương nhất.”

Tiếng chim kêu nho nhỏ và lảnh lót cất lên trong khu vườn, hệt như tiếng vọng của chính màn đêm. “Ngài có nghe thấy tiếng cú(34) kêu không?” Giovanni hỏi. “Nó là điềm báo vận may nào đó sắp đến với ta. Ta chẳng biết nữa,” anh ta nói tiếp sau hồi im bặt, “điều đó sẽ là gì, trừ phi Đức Chúa nắm giữ quyền năng tưởng tượng vô vàn cao cả hơn bản thân ta - điều đó, trừ phi là ngài quá thương yêu vị Hoàng thân thân mến của ta hơn là ta nhiều. Mà điều đó, dĩ nhiên, ta phó mặc cho ngài.” Cậu ta ngồi trầm tư một hồi. “Bầy ngựa ta vừa tậu...” anh ta nói, “Ta còn chưa đặt tên cho chúng nữa. Ngài Hoàng thân ấy, giờ thì, có thể thoải mái tìm ra tên cho chúng rồi. Liệu ngài có thể nghĩ đến điều gì khác nữa?”

VI. NHỮNG CON RỐI DÂY

Khi chàng Hoàng thân trẻ tuổi, sau bao lời cảm tạ hết lần này đến lần khác, gửi lời chúc ngủ ngon tới người phụ tá rồi chia tay, lão gia nhân mà chàng nhìn thấy trong cỗ xe ngựa nhỏ tiến đến đằng sau Augustus, rón rén như mèo, chạm vào vạt áo của chàng. Cô chủ, ông ta nói, bị những tiếng náo động trong nhà quấy rầy, rất mong ngài Bá tước có thể kể cho cô nghe chuyện gì xảy ra vậy. Cô chủ, quả thực, đương đợi ngài ở đằng cuối dãy nhà, chỗ có ánh đèn hắt ra từ khung cửa rọi xuống băng ghế đá. Lão gia nhân vẫn còn ló mặt, gần thân cây lớn cách đó không xa.

Augustus ngập ngừng khi cho quý cô hay tin về màn đọ súng, mà chàng nhận ra cô biết hết cả rồi, bởi người quản gia, cùng với lão chủ quán, đã nghe hết từ bên ngoài cánh cửa. Điều cô muốn biết, có vẻ như bị kích động cao độ về chuyện này, là cuộc cãi vã nổ ra như thế nào. Augustus nghĩ rằng chàng có lẽ cũng nên kế hết cho cô nghe, đề phòng có cuộc điều tra diễn ra sau này, thế là chàng tuyên bố rằng bản thân chàng cũng không tài nào hiểu nổi lý do gì dẫn đến cuộc chiến một mất một còn đó, chàng tường thuật lại cho cô gần như toàn bộ cuộc trao đổi trong bữa tối mà chàng còn nhớ được. Cô lắng nghe không bỏ sót một lời nào, đứng bất động như trời chồng, mà trong lúc nghe chuyện, cô cầm lấy tay chàng và dắt chàng tiến vào chỗ có ánh sáng. Khi chàng kể xong cô khẩn khoản xin chàng kể cho cô nghe câu chuyện về kẻ giết thuê của vị Hoàng thân già toàn bộ một lần nữa, rồi yêu cầu chàng ngừng kể để nói lại cho cô nghe về nhân vật hay câu nói nào đó.

Khi chàng kể xong câu chuyện lần nữa,cô đột nhiên tiến về nơi có ánh sáng, và chàng giật mình khi thấy gương mặt cô, như thể phản chiếu từ trong gương, nét biểu đạt trên gương mặt vị Hoàng thân già khi ông ta bị sỉ nhục thậm tệ. Cô không sử dụng phấn son trang điểm, khiến cho chàng nhận ra dòng máu nóng trong cô đang chầm chậm dồn lên trên vầng trán khiến cho toàn bộ gương mặt đỏ phừng phừng như người vận động hay uống rượu mạnh. Với phong thái nhẹ nhàng hơn - bởi cô không phải mang sức nặng như ông ta, kể cả về tinh thần lẫn thể chất - cô mang cái vẻ đúng vào khoảnh khắc biến chuyển dị thường của người đàn ông ấy - và có lẽ thoáng qua, cái vẻ của nữ tín đồ trẻ tuổi trong đoàn tùy tùng của thần Dionysus(35) cổ xưa, hoặc có lẽ, bởi ánh lấp lánh trong đôi mắt to tròn, mang cái vẻ nằm trong ánh mắt những con báo trong đoàn của thần.

Nàng hít hơi thật sâu. “Từ giây phút lần đầu gặp ngài, thưa Signore,” cô nói, “Em biết vận may nào đó sắp đến với em. Giờ thì hãy nói cho em nghe: liệu có khả năng nào không, để cả hai bọn họ nổ súng đồng thời, và đều nhắm trúng đích, hai viên đạn găm trúng tim họ cùng một lúc và bọn họ đều chết?”

Augustus trộm nghĩ quý cô này đang là, sinh viên nghiên cứu những vì sao và triết học, sao tâm trí quay ngoắt sang chiều hướng đẫm máu như vậy, “Ta chưa từng nghe chuyện như thế bao giờ,” chàng nói, “dẫu ta không thể bảo là chẳng thể xảy ra. Tự ta không thấy thoải mái về kết cục của màn đọ súng như vậy, mà trùng hợp lạ lùng là ta nghe nói rằng, mới chỉ hôm qua thôi, vị Hoàng thân già là tay súng thiện xạ đấy.”

“Ai người ta cũng biết điều đó,” cô nói, “nếu ông ta không còn cách nào có thể đe dọa người khác, ông ta sẽ dùng đến những khẩu súng lục của mình. Mà làm ơn hãy kể em nghe, hỡi Signore,” cô tiếp tục, “chàng thanh niên vị Hoàng thân già muốn xuống tay là ai? Chàng chưa cho em biết tên người đó.” Augustus nói cho cô nghe. Cô lại đứng im không nói, vô cùng thinh lặng. “Giovanni Gastone,” cô chậm rãi nhắc lại, “thế thì em từng chính mắt nhìn thấy người này. Vào cái ngày lễ ban thánh thể đầu tiên của em, năm năm về trước, anh ta hộ tống bà mình đến vương cung thánh đường, và cầm ô che cho bà từ trên cỗ xe vào tới cổng vòm, hôm đó trời mưa như trút.”

“Để bọn họ ngủ thôi,” cô nói sau chốc lát. “Nếu như đây là đêm cuối cùng chắc cậu ta giờ này lên giường rồi, cứ để cậu ta ngủ đi đã. Mà còn bọn ta, hỡi Signore, thì chẳng tài nào chợp mắt được, bọn ta phải làm gì chứ nhỉ? Bác gia nhân bảo với em rằng có đoàn múa rối đến tửu quán, và bởi những người đẩy xe goòng từ Pisa quay về muộn, nên giờ này họ mới trình diễn. Bọn ta đi tới đó xem đi.”

Bản thân Augustus cảm thấy không tài nào ngủ được. Quả thật, chàng ít khi nào thấy khó ngủ hay bị kích thích nhiều đến vậy. Chàng cảm thấy cơ thể mình nhẹ nhõm hơn, như hồi chàng còn bé. Với niềm kinh ngạc sung sướng của kẻ săn lùng dò trúng phải mỏ vàng trên núi đá, chàng ngẫm rằng mình đang lao vào mạch biến cố của dòng đời. Việc đồng hành cùng cô gái cũng khiến chàng thoải mái theo cách nào đó, chàng đương nghĩ liệu có phải vậy chăng, phần nào đó là do cách ăn mặc của cô ăn giống chàng với chiếc quần dài màu đen, thứ đối với chàng có vẻ như là trang phục thông thường dành cho con người. Lông thú và những chuỗi hạt cườm dùng để làm nổi bật thêm vẻ nữ tính của người phụ nữ nhìn chung lại là thứ trói buộc, chàng nghĩ, khiến cho việc chuyện trò với bọn họ hệt như trao đổi với viên chức mặc đồng phục hay giáo sĩ trong manh áo thầy tu, những thứ không dễ gì cởi bỏ. Chàng đi theo cô vào trong nhà kho rộng lợn quét vôi trắng, tại đó sân khấu được dựng lên và vở kịch vừa mới khai màn.

Bầu không khi trong này thật nóng nực và ngột ngạt, dẫu ô thoáng cao tít trên tầng mái được mở ra để đón lấy màn trời về đêm xanh như ngọc. Tòa nhà đã gần kín khán giả trong ánh sáng lờ mờ hắt ra từ vài chiếc đèn lồng cũ kỹ treo trên trần. Xung quanh sàn diễn là những ngọn nến tạo nên một quầng sáng ma mị cho ánh sáng sân khấu, khiến cho sắc đỏ thẫm, da cam và xanh lá trên trang phục của những con búp bê, mà ban ngày trông bạc màu và xám xịt, trở nên lung linh như châu ngọc. Bóng của chúng, lớn hơn bản thân chúng nhiều, phản chiếu mọi cử động lên tấm vải trắng dùng làm bức màn phía sau.

Người biểu diễn ngừng lời dẫn vì sự xuất hiện của những vị khách đặc biệt, đưa cho họ hai chiếc ghế bành để ngồi sát sân khấu, ngay trước khán giả. Rồi ông tiếp tục diễn từ phân đoạn ban nãy, cất tiếng sang sảng theo đủ loại giọng của nhân vật.

Vở kịch được diễn là vở Màn Trả thù của Sự thật(36) bất hủ, vở hài kịch múa rối dây vô cùng lôi cuốn. Mọi người sẽ nhớ đến cốt truyện được gây dựng từ lời tuyên bố của mụ phù thủy, rọi xuống ngôi nhà nơi toàn thể các nhân vật tụ họp lại, đó là lời nguyền giáng xuống bất kỳ lời dối trá nào thốt ra trong đó đều sẽ biến thành hiện thực. Thế là người đàn bà trẻ hám lợi đương tìm cách tóm lấy người chồng giàu sụ bằng cách khiến cho gã này tin rằng ả yêu gã, thì rơi vào lưới tình của gã; kẻ khoác lác thì biến thành người anh hùng; những kẻ đạo đức giả thì cuối cùng thành ra những con người thực sự cao đạo; lão hà tiện đi kể với mọi người rằng mình nghèo khổ thì mất hết tiền tài. Khi chỉ có những người phụ nữ với nhau thì họ xuất khẩu thành thơ, mà ngôn ngữ của cánh đàn ông thì đâu đâu cũng lỗ mãng; chỉ còn cậu thiếu niên, con người trong trắng duy nhất trong vở hài kịch, là được sở hữu những bài hát tuyệt vời với tiếng nhạc đệm từ cây đàn mandolin từ đằng sau sân khấu.

Bài học luân lý từ vở kịch đã khiến khán giả hài lòng, gương mặt lấm lem mệt mỏi của họ trở nên rạng rỡ lên khi cười vào Mopsus, gã hề. Cô gái dõi theo diễn biến cốt truyện với tinh thần của người đồng hành với tác giả. Augustus thì cảm thấy, với tâm trạng của mình hiện tại, điều gì đó lạ lùng trong lời thoại đi thẳng tới trái tim chàng. Khi gã nhân tình nói với người yêu của hắn rằng một mẩu bánh mỳ suông làm no lòng kẻ đói còn hơn cả quyển sách dạy nấu ăn, chàng đón nhận nó, chẳng hiểu vì sao, như lời khuyên dành cho mình. Nạn nhân ngây thơ thổ lộ với kẻ giết người có chủ đích về vẻ đẹp của ánh trăng, còn vai phản diện đáp lại bằng bài lên lớp về sự vô lý trong quyền năng của Chúa khi khiến chúng ta mê đắm những điều không có bất kỳ ích lợi gì cho chúng ta, thậm chí còn ngược lại; rồi hắn tiếp tục tuyên bố rằng bởi Chúa yêu thương chúng ta theo cái cách chúng ta yêu thương loài chó: bởi khi ngài phấn khởi thì chúng ta phấn khởi; còn khi ngài chán nản, thì chúng ta chán nản theo; còn vào lúc ngài mơ mộng thì ngài tạo ra đêm trăng, bọn ta cứ lóc cóc gắng sức theo chân ngài. Điều này khiến Augustus mỉm cười. Chàng nghĩ hẳn chàng muốn có lại cảm giác đó một lần nữa, như hồi còn bé, muốn làm một con trong bầy chó của Chúa.

Đến hồi kết thì mụ phù thủy lại xuất hiện, khi bị hỏi: thế sự thật đích thị là thế nào, đã đáp: “Sự thật, các con ơi, đó là bọn ta, toàn thể bọn ta, đương diễn trong một vở kịch múa rối. Chẳng còn điều gì quan trọng hơn trong vở kịch múa rối ngoài việc tuân thủ trọn vẹn ý đồ của tác giả. Đó là hạnh phúc đích thực của cuộc đời, và lúc này đây ta rốt cuộc cũng tham gia vào vở diễn múa rối, ta sẽ chẳng bao giờ thoát ra khỏi nó được nữa. Mà các ngươi, dàn diễn viên đồng nghiệp của ta, vẫn phải đảm nhiệm cho tròn vai theo ý đồ của tác giả. Thôi được, cứ để chúng tìm đến kết cục cuối cùng dành cho chúng đi.” Lời thoại khiến chàng đột nhiên thấu tỏ hẳng bao điều về sự thật. Đúng rồi, chàng nghĩ, nếu đời ta chỉ là vở kịch múa rối còn ta sắm vai trao cho mình trong đó và hiểu rõ về nó, chắc có lẽ sẽ thấy vô cùng thoải mái và ngọt ngào. Con người trên xứ sở này dường như, không hiểu vì sao, đều hành động đúng theo quan niệm đó. Bọn họ như thể miễn nhiễm với nỗi khiếp sợ, tội ác và phép mầu của cuộc đời này, cuộc đời mà bọn họ tham gia như những vai diễn phụ trên sân khấu của người diễn viên gạo cội. Đối với người phương Bắc, mối âu lo dữ dội hễ mỗi lần tìm đến trong tâm hồn thì như một sự lạ, và khi bọn họ ở vào trạng thái kích động thì ăn nói ngắc ngứ. Mà những người này nói năng trôi chảy trong trạng thái xúc động mãnh liệt, như thể cuộc đời, dẫu ra sao thì ra, là vở hài kịch mà bọn họ đã luyện tập kỹ rồi. Giờ nếu rốt cuộc mình đã, chàng nghĩ, tham gia vào vở kịch múa rối dây rồi, mình sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi nó được nữa.

Trong lúc xem cảnh hạ màn, khi toàn bộ các con rối đều xuất hiện trên sân khấu để đón nhận tiếng vỗ tay tán thưởng của cả khán phòng, Augustus nghe thấy tiếng mở cửa từ đằng sau gian buồng, và quay ra thì thấy Hoàng thân Giovanni cùng người gia nhân tiến vào, ngó xung quanh về phía khán giả như thể tìm ai đó. Khi nghĩ rằng có lẽ bọn họ tìm mình, chàng tiến lại phía bọn họ, cách xa một chút khỏi đám đông huyên náo trong rạp hát. Chàng cảm thấy hơi ngượng ngùng vì đã bỏ đi tìm nơi giải trí vào cái đêm có lẽ là đêm cuối của cuộc đời chàng trai trẻ đó. mà Giovanni chẳng hề tỏ vẻ ngạc nhiên, còn hỏi xem vở kịch có hay không. “Có chuyện không may vừa xảy tới,” anh ta nói, “Cậu bạn trẻ của ngài Hoàng thân, người phải có mặt để làm phụ tá, cứ ngất lên ngất xuống. Cậu này lả đi và không ngừng khóc lóc. Ta nhớ ra đã từng bắt gặp ngài, vào buổi tối, có đồng hành cùng với một cậu thiếu niên mà ta đoán, từ thái độ của ngài dành cho cậu ta, là một công tử có địa vị cao quý, có lẽ cũng đến từ đất nước ngài. Ta đến khẩn nài ngài hãy để cậu ta đóng vai người phụ tá vào sáng mai, bởi cả ngài Hoàng thân lẫn tôi đều không mong trì hoãn chuyện này.”

Lời giãi bày của chàng Thân vương đưa Augustus vào thế tiến thoái lưỡng nan. Chàng không muốn để lộ bí mật của cô gái, và ngẫm rằng có lẽ tốt hơn là cứ để Giovanni tin rằng cô đích thị là một cậu thiếu niên đến từ quê hương chàng, hoặc ai đó mà chàng cần phải trông nom vì lý do nào đó. “Quý cậu ấy,” chàng nói, “có lẽ đối với tôi còn quá nhỏ tuổi để tham gia vào một chuyện sinh tử đến vậy. Mà bởi cậu ấy đương ở bên cạnh tôi, nếu ngài đợi được tôi sẽ đi nói chuyện với cậu ấy.”

Khi chàng quay lại thì cô vẫn còn đương nhìn lên sân khấu, mà đúng lúc đó tấm màn buông xuống để kết thúc vở. Chàng lập lại với cô về cuộc đối thoại với chàng Hoàng thân và gợi ý rằng bọn họ nên tìm cách viện cớ cô phải rời đi ngay sớm mai, để cô không phải dính líu vào sự vụ này. Cô suy nghĩ về chuyện đó chốc lát, rồi bật dậy trông về phía Giovanni, đúng là anh ta, đương ở góc cuối gian buồng, nhìn cô và Augustus.

“Thưa Signore,” giọng cô chậm rãi và nghiêm nghị, “Em muốn được gặp bạn ngài Hoàng thân Nino, và không gì khiến em thỏa lòng hơn việc được trở thành người phụ tá trong cuộc đọ súng đó. Các dòng họ trên quê hương em không bao giờ được phép tỏ ra thân thiện với người ngoài, mà trong chuyện liên quan đến danh dự thì những điều xảy đến trong quá khứ được phép bỏ qua. Xin hãy rộng lòng đến báo với anh ta rằng tên em là Daniele della Gherardesca, và em sẽ nghe theo lời đề nghị của anh ta.”

Hoàng thân Giovanni, nhận ra bọn họ đang nhìn mình, tiến đến gặp bọn họ, và khi Augustus giới thiệu bọn họ với nhau, hai con người trẻ tuổi đã trao cho nhau lời chào hỏi vô cùng lịch thiệp. Cô đương đứng quay lưng với sàn diễn, ánh đèn sân khấu tỏa ra vầng hào quang quanh đầu cô, nét thanh thản mà kiêu kỳ khiến cô trông như thể vị thánh nhỏ tuổi đương cải trang trong hình hài chàng công tử. Mọi người trong khán phòng, đều đã đứng dậy, khi nhận ra chàng Hoàng thân đều dừng bước nhìn chàng, cách xa một chút để bọn họ nói chuyện.

Chàng hoàng thân bày tỏ lòng cảm tạ với cử chỉ lịch sự dành cho mình. “Thưa Ngài,” cô gái nói, “ở xứ Ai Cập, lúc này nàng đã là bậc mệnh phụ còn chàng là tể tướng, người vợ của Potiphar(37) khi có lần được tiếp kiến Joseph đã yêu cầu ông ta đáp ứng một đòi hỏi cao xa, những vì sao trên thiên đường, cho người con rể. “Ta chả bao giờ muốn đòi hỏi thứ gì,” bà ta nói, “vậy nhưng, ta cảm thấy lâu lắm rồi ta chưa từng đòi hỏi điều gì ở Đại Nhân cả, thế nên ta hy vọng ngài sẽ chịu lắng nghe thỉnh nguyện của ta.”

“Thưa Phu Nhân,” vị Tể tướng nói, “hồi xưa có lần ta từng bị tống vào tù. Ở trong đó ta chẳng thể thấy được những vì sao, vậy mà ta lại thường mơ về chúng. Ta mơ rằng bởi ta chẳng thể dõi theo nên chúng bay lượn náo loạn khắp bầu trời, khiến cho những người chăn cừu và lạc đà điều khiển đàn thú trong đêm sẽ bị lạc lối. Ta thậm chí có lần mơ về nàng, Phu Nhân à, và rồi khi ta phát hiện ra ngôi sao Aldebaran(38) từ trên trời rơi xuống, ta nhặt nó lên và trao cho nàng. Nàng gắn nó lên chiếc khăn choàng vai rồi nói: “Xin ngàn lần cảm tạ, hỡi Joshep.” Ta rất vui vì giấc mơ của ta trước sau gì rồi cũng trở thành hiện thực thôi. Ước nguyện của nàng dành cho con rể đã thành rồi đấy.”

Nói xong bọn họ chia tay.

VII. MÀN ĐỌ SÚNG

Mặt trời hẵng còn chưa ló rạng, nhưng hứa hẹn một ngày ngập tràn ánh nắng và trên nền trời không gợn một bóng mây. Mặt đường lát đá trên sân hiên vẫn còn ướt đẫm sương; có con chim, rồi thêm một con nữa, bắt đầu cất tiếng líu lo trong lùm cây ngoài vườn, từ bên đường xuất hiện tiếng la hét của đám người đánh xe, bọn họ cuốc bộ từ sáng sớm, bước đi bên cạnh đàn bò sừng dài.

Augustus là người đầu tiên ra khỏi tòa nhà. Cái se lạnh của không khí sớm mai, trong lành như ly nước mát, khiến chàng hít một hơi thật sâu, chậm rãi chìm trong mùi sương khói, cỏ cây, và cả bụi đường. Thật lạ lùng đối với chàng khi xảy ra chuyện chết chóc trong bầu không khí này, và chàng vẫn không hiểu tại sao những địch thủ này quyết chí lao vào chỗ chết như vậy; và từ những điều lệ của màn đọ súng, được bọn họ đề ra từ đêm qua, chàng chắc mẩm rất có khả năng một trong hai người sẽ không còn sống mà ngắm nhìn mặt trời lên cao trên nền trời không gợn bóng mây được nữa.

Ý nghĩ về màn chết chóc càng khuấy động dữ dội trong lòng khi chàng chậm rãi bước tới khoảnh dài trên sân hiên dài. Từ nơi này chàng có được một góc nhìn bao quát ra con đường với những hàng cây, uốn lượn quanh co xuyên qua khung cảnh đó. Đằng cuối chân trời chàng nhìn thấy một làn kẻ chấp chới, xanh thẳm, nhấp nhô, phía trên là bóng mây nhỏ bé lơ lửng giữa tầng trời. Chàng nghĩ khi mặt trời nhú lên là lúc sẽ thấy được Pisa. Vậy đây là chặng đầu tiên trên hành trình của chàng, bởi chàng mang theo thư giới thiệu tới người ở nơi đó. Mà những con người ở đây lại hối hả lao đến chặng cuối trên toàn bộ hành trình của họ, chàng nghiệm ra rằng bọn họ ắt hẳn đã thực hiện chuyến du hành, theo cách nào đó, đi xa hơn mình nhiều, và đã chứng kiến nhiều thứ trên con đường này, thế nên mới sẵn sàng tạo nên cái kết theo cách đó.

Khi quay lại chàng thấy Giovanni xuất hiện, có người hầu hộ tống, ngừng lại ngắm nhìn bầu trời hệt như chính chàng vừa làm. Khi nhìn chàng trai Đan Mạch, cậu ta tiến đến gửi lời chào buổi sáng, và bọn họ đi đi lại lại trên sân hiên cùng nhau, nói đủ thứ chuyện. Giả như kẻ đọ súng này có vẻ gì lo lắng, thì anh ta đã giấu kín trong lòng, vẻ ngoài chỉ tỏ ra hòa nhã và tươi tỉnh lạ lẫm. Chính vào lúc đó Augustus có cảm tưởng rằng cậu ta trông mong vào kết cục của thời khắc sắp xảy đến với vẻ háo hức bình thản, đến mức cậu ta chắc không thể nào cho phép bất cứ điều gì trên thế gian có thể tước đoạt nó đi.

Hai trong số đám gia nhân của ngài Hoàng thân già xuất hiện, khiêng ra chiếc ghế bành lớn. Ngài Hoàng thân quá to béo nên khó lòng có thể đứng đối diện với người đọ súng, và thói quen của ông ta là thực hiện phát bắn khi đang ngồi. Bọn họ hỏi Augustus vị trí đặt ghế, và tất cả bọn họ bắt đầu đi tìm vị trí hoàn toàn bằng phẳng trên khoảnh sân. Đó là khoảng cách đảm bảo mười bước chân giữa hai kẻ đối đầu, và bọn họ đo khoảng cách này vô cùng cẩn thận, rồi đánh dấu vị trí nơi Giovanni phải đứng. Những gia nhân của ngài Hoàng thân cũng lôi ra cặp súng lục từ trong chiếc hộp vô cùng thanh nhã, rồi đặt nó, cùng với ly nước chanh và chiếc khăn tay bằng lụa, trên chiếc bàn nhỏ đặt cạnh ghế của ông. Xong xuôi bọn họ quay vào trong tòa nhà. Trong khi bọn họ sắp đặt công chuyện, cô gái cùng lão gia nhân xuất hiện tại sân hiên. Cô trông xanh xao trong tấm áo choàng rộng, và đứng cách xa mọi người một chút. Viên bác sĩ, được mời tới từ trong làng - trên người thoang thoảng mùi bạc hà và vẫn còn để tóc thắt bím và đeo chiếc túi kiểu thế hệ ngày xưa - xuất hiện cùng lúc, và cứ đứng bên cô, khiến cô vui vẻ bằng những câu chuyện đọ súng mà lão từng nghe hay đọc được, và kết cuộc đều gắn với chết chóc. Chàng Hoàng thân, đứng đằng xa, thi thoảng lại nhìn về phía họ. Không gian dần ngập tràn ánh sáng; tiếng chim hót đột nhiên cất lên trong trẻo. Trong khoảnh khắc đó, có thể cảm nhận được, điều gì đó sắp xảy đến. Ngoài đường kia, một đàn cừu đông đúc băng qua đám bụi mù trời nhuộm sắc vàng óng ánh.

Bọn họ nhìn hướng về phía cánh cửa osteria lúc này đã mở và ngài Hoàng thân già bước ra, tựa vào tay người gia nhân. Ông ta ăn mặc vô cùng lịch thiệp trong tấm áo choàng màu xanh sẫm, trang điểm tỉ mỉ, và bản thân ông ta mang dáng vẻ vô cùng đường hoàng và nghiêm nghị. Rõ ràng ông ta bị kích động sâu sắc. Đúng lúc này mặt trời nhô cao cuối chân trời, mà nó cũng chẳng làm thay đổi hay chi phối khung cảnh này bằng sự xuất hiện của ông ta được. Trong khi toàn thể mọi người, bằng cách nào đó, đều che giấu hoặc kìm nén cảm xúc thực của họ thì ông ta tỏ vẻ đau buồn bằng nét hồn nhiên của đứa trẻ ngoan ngoãn, hoàn toàn tin cậy rằng mọi người xung quanh sẽ thông cảm cho mình. Ánh mắt u tối nhòa đi, nhưng bộc trực và hiền dịu, như thể mọi sự trên đời đều là lẽ tự nhiên và êm ái đối với ông ta, và ông ta gây nên ấn tượng về tính quả quyết và làm chủ hệt như người nghệ sĩ bậc thầy đương bắt cây đàn violin lên bổng xuống trầm tới mọi cung bậc, thậm chí đến cả cái rùng mình của con người khốn khổ này, cũng như thể đứa trẻ đang chơi đùa. Trạng thái cân bằng trong tâm trí ông ta đáng kinh ngạc và đập vào mắt người khác hệt như khả năng giữ thăng bằng của cơ thể đồ sộ trên đôi chân vô cùng nhỏ bé và thanh nhã. Đó là lúc Augustus bắt gặp ánh mắt ông, trong buổi sáng hôm đó ngoài sân hiên, chàng cảm thấy bị thuyết phục ngay rằng phát súng của ông già hẳn là chí mạng. Ngay cả là thần Jupiter(39), với tia sét để trong túi áo, cũng chẳng thể mang tới ấn tượng bất khả chiến bại nào mãnh liệt hơn thế.

Ông ta nói bằng giọng nhã nhặn và thân thiện với tất cả mọi người, dường như khiến viên bác sĩ thành người phục dịch của mình ngay từ giây phút ban đầu. Ánh mắt trừng trừng của đối phương dõi theo từng cử động nhỏ nhất của con người to lớn này. Ông ta không hề vội vàng, mà rõ ràng cũng không muốn kéo dài lâu thêm. Hiển nhiên, từ khoảnh khắc ông ta xuất hiện, mọi thứ sẽ diễn ra theo đúng nhịp điệu và vẻ uyển chuyển của điệu nhảy minuet hoàn hảo.

Sau chút để tâm tới thời tiết và mọi thứ xung quanh, tỏ lòng cảm tạ tới hai người phụ tá, ông ta đề nghị, trong khi vẫn đứng yên vị trí, để đối phương chọn súng, khi Giovanni, cầm một khẩu trên tay, đã lui một chút về vị trí đánh dấu dành cho mình, ông ta mới buông mình rời khỏi cánh tay người gia nhân, gập người cúi chào địch thủ rồi làm động tác vận động mạnh để thả lỏng, như thể lúc này ông ta sung sướng tiến đến điểm kết thúc của đời sống tầm thường để đến với điểm khởi đầu cho cuộc đời đích thực, rồi, cầm lấy khẩu súng kia, ông ta tự ngồi xuống chiếc ghế bành lớn, thư giãn, trong chốc lát, đặt vũ khí lên đầu gối. Augustus đảm nhiệm vai trò của mình ở khoảng cách giữa hai kẻ đọ súng, để ai trong số bọn họ cũng đều có thể nghe thấy hiệu lệnh của chàng. Làn gió nhẹ đưa len qua những tầng lá trong vườn, khiến những bông hoa rung rinh tỏa hương thơm ngát.

Đúng vào khi Augustus húng hắng giọng để chuẩn bị hô lên từng tiếng một - hai - ba, thì bóng hình mảnh mai của cô gái, người đứng đối diện với chàng, tiến lại gần ngài Hoàng thân già, và, đặt một tay đặt lên hông, cô nói với ông ta bằng chất giọng trong trẻo khe khẽ, như thể có con chim trong vườn vừa xà xuống trên vai ông để hót cho ông nghe.

“Làm ơn cho phép tôi, thưa ngài Hoàng thân,” cô nói, “được nói với ngài vài câu trước khi ngài nổ súng. Tôi có điều cần nói với ngài. Giá mà tôi biết chắc được kết cục màn độ súng tôi hẳn sẽ đợi tới khi ngài giết chết anh ta, nhưng nào ai biết hết được ý trời, và tôi không hề muốn thấy ngài ra đi trước khi ngài nghe được điều tôi phải nói.” Toàn thể các gương mặt đều hướng về cô, mà cô chỉ nhìn vào gương mặt u hoài và bình thản của ông già. Cô trông trẻ quá và nhỏ nhắn, mà vẻ nghiêm trang cùng sự bình tĩnh vô cùng khiến cho hình hài của cô trở nên vô cùng quan trọng, tưởng như có một thiên thần hủy diệt trẻ tuổi từ bầu trời cao xanh trên đầu lao thẳng xuống sân hiên lát đá, rồi đứng đó để phán xét.

“Một năm trước,” cô nói, “Rosina, vợ ngài, ra ngoài vào lúc nửa đêm để gặp người anh họ Mario, anh này đã rời Pisa sáng hôm đó, tại nhà của bà vú nuôi của cô ở gần bến cảng. Hai người bọn họ nhất thiết phải gặp nhau để quyết định xem bọn họ phải làm gì bây giờ, và Rosina cũng cảm thấy sức lực của mình đương kiệt quệ dần, và nàng buộc phải gặp người mình yêu lần nữa bởi nếu không nàng nghĩ mình chết mất.

“Rosina, như ngài biết, lúc nào cũng để đèn sáng suốt đêm trong buồng ngủ, và nàng chẳng dám tắt nó đi vào đêm ấy bởi sợ rằng chính ngài sẽ bước vào gian buồng, hoặc một trong số kẻ rình mò của ngài, hay người hầu của nàng, có thể nhìn vào, rồi phát hiện ra gian buồng trống hoắc, rồi đi đánh động cả nhà dậy. Thế nên nàng đã nhờ người bạn thân nhất của mình, một trinh nữ như nàng, người ấy, chiểu theo một lời thề linh thiêng, luôn sẵn sàng giúp đỡ, đã thế vào chỗ trên giường nàng vào đúng thời khắc ấy. Về phần hai người kia, bọn họ đã mua chuộc gã gia nô da đen của ngài, Baba, bằng mười hai thước(40) vải nhung đỏ thắm và con chó con giống Bologna bầu bạn với Rosina - đó là tất cả những gì bọn họ có được trên thế gian để cho đi - nhằm thả cho bọn họ ra vào tòa dinh thự. Bọn họ xuất hiện rồi bỏ đi trong trang phục phụ tá cho người bào chế thuốc, người vẫn thường được triệu đến để thụt rửa ruột cho bà quản gia cao tuổi của ngài. Rosina đến nhà người vú nuôi và trò chuyện với Mario trước sự chứng kiến của bà lão, đầu đuôi câu chuyện là vậy. Bọn họ thề nguyền mãi mãi bên nhau rồi nàng trao cho anh ta lá thư đế tới gặp ông chú của nàng tại Rome, còn nàng quay về lại tòa palazzo chỉ chốc lát sau khi đồng hồ điểm một giờ. Đó, thưa ngài Hoàng thân, chuyện của tôi là vậy, đó là điều tôi muốn ngài phải biết.”

Tất cả bọn họ đều đứng như trời chồng, như thể một đám những con rối gỗ tí hon đứng ngoài sân hiên tửu quán giữa khung cảnh hùng vĩ - Augustus và lão bác sĩ bất động là do bọn họ chẳng hiểu lời nói đó có ý nghĩa gì; ngài Hoàng thân già và Giovanni chết lặng là bởi lời nói đó khiến bọn họ bị choáng váng đến mức không thể cử động được.

Rốt cuộc ông già lên tiếng. “Ai vậy,” ông nói, “ai đã phái ngươi đến kể cho ta nghe chuyện đó hôm nay, hỡi signora trẻ trung xinh đẹp?” Cô gái nhìn thẳng vào mắt ông ta.

“Ngài không nhận ra tôi sao, thưa ngài Hoàng thân?” cô gái hỏi. “Tôi chính là cô gái ấy, Agnese della Gherardesca, người đã giúp sức cho vợ ngài. Ngài trông thấy tôi trong hôn lễ của ngài rồi, trong vai phù dâu, trong bộ cánh màu vàng. Cũng có lần ngài bước vào buồng Rosina, trong khi tôi đang chơi cờ với Giáo sư Pacchiani, người do ngài phải đến để chỉ bảo cho nàng biết phận sự của mình. Nàng đứng bên khung cửa sổ để không ai biết mình đương khóc.” Sau khi cô thốt ra những lời đó Hoàng thân Giovanni không tài nào rời mắt khỏi gương mặt cô; trong suốt những diễn biến về sau, anh ta chỉ bất động, hệt như một thân cây trong vườn.

Ngài Hoàng thân già ngồi trên chiếc ghế bành kềnh càng, trông còn giống hơn cả bức tượng cổ dữ dội và tuyệt đẹp được khảm bằng vàng, ngà voi và gỗ mun. Ông nhìn chăm chú về phía cô gái trẻ. “Ngàn lần thứ lỗi cho ta, hỡi Signora,” ông nói bằng giọng điệu vô cùng trịnh trọng. Rồi lại ngồi thinh lặng.

“Vậy thế ra,” ông ta cất lời vô cùng chậm rãi sau chốt lát. “nếu như Baba trung thành với ta thì ta chắc đã tìm ra hai kẻ đó bên nhau trong ngôi nhà gần cảng biển, vào đêm đó, và chắc cả hai sẽ bị ta tóm gọn?”

“Đúng vậy, đó là điều ngài sẽ làm,” cô gái nói. “Mà bọn họ không bận tâm đến chuyện bị ngài xuống tay thế nào đâu, bọn họ chỉ cần được chết cùng nhau.”

“Không, không, không,” ngài Hoàng thân già nói, “chẳng bao giờ ta làm thế. Sao ngươi lại nghĩ rằng ta sẽ giết cả hai đứa nó chứ? Mà ta sẽ lột bỏ hết quần áo chúng ra rồi bảo chúng rằng ta sẽ bắt chúng phải chết theo cách tàn độc, vào lúc trời sáng, rồi ta sẽ hạ lệnh giam cả hai riêng vào một xó, suốt đêm. Khi con bé sợ hãi hay cáu giận, gương mặt nó, toàn bộ thân hình nó, ửng hồng lên như bông trúc đào vậy.” Điều gì đó khiến ông ngẫm ngợi hồi lâu. Người ông cứng đanh lại như hóa đá, đến khi đột nhiên như một đợt sóng trào khiến cho gương mặt ông già đỏ gay gắt.

“Rồi,” ông ta thét lên trong nỗi kích động mãnh liệt, “ta sẽ bắt con bé, ôi đứa trẻ đáng yêu của ta, thích bày trò gì thì cứ diễn tiếp đi!”

Một khoảng lặng kéo dài; không ai dám lên tiếng trước nỗi đau tột cùng hiển hiện ra đến thế.

Đột nhiên ông ta mỉm cười với tất cả, nụ cười vô cùng hiền dịu và ngọt ngào. “Lúc nào chả vậy,” ông cất cao giọng sang sảng, “bọn ta thua cuộc bởi vì hèn mọn quá. Ta hận thằng nhóc Mario kia, mối hận thực là hèn hạ. Chỉ bởi thói phù phiếm của mình, ta nghĩ rằng mình cần phải có người kế tục, nếu chuyện xảy ra đúng ý ta, dòng dõi công tước nhà ta. Hèn mọn quá ta ơi, ta hèn mọn quá trước Ý Trời.”

“Nino à,” ông ta nói sau chốt lát, “Nino thân mến của ta, hãy tha thứ cho ta. Hãy đưa tay cậu cho ta.” Bị kích động sâu sắc, Giovanni bỏ khẩu súng xuống và đưa tay cho ông già. Mà vị Hoàng thân già, sau khi siết chặt lấy bàn tay chàng thanh niên, lại cầm lấy khẩu súng, như thể tự vệ chống lại kẻ địch lớn lao hơn.

Ánh mắt đen sâu hoắm nhìn thẳng về phía trước. Miệng ông ta he hé, như thể muốn mấp máy. “Carlotta, “ ông nói.

Rồi, bằng động tác lạ lùng, như thể kiệt sức, ông ta ngả người sang bên phải rồi ngã ra, cùng với cả chiếc ghế, nghiêng hẳn xuống đất, thân hình nặng nề của ông ta đập uỵch xuống mặt sàn lát đá. Chiếc ghế chổng hai chân lên giời còn thân hình ông ta lăn tuột ra khỏi đó, rơi xuống sàn và nằm im bất động. Đúng vào khoảnh khắc đó, khẩu súng, ông ta vẫn nắm trong tay, rời ra; viên đạn, vạch thành một đường vút lên vu vơ vào không trung, bay sát sạt mái đầu Augustus khi chàng nghe thấy tiếng vụt qua của nó, hệt như tiếng chim kêu réo rắt. Điều này khiến chàng choáng váng giây lát, làm chàng chợt nhớ tới hình ảnh người vợ. Khi cảm thấy dần định thần trở lại, chàng trông thấy viên bác sĩ, quỳ xuống bên cạnh lão Hoàng thân, nhấc cả hai tay hướng lên trời. Gương mặt ông già dần dần chuyển sang tái xám. Lớp phấn trên má và miệng trông như thể lớp men hồng và đỏ thắm tráng phủ lên lớp bạc.

Người bác sĩ hạ tay ông ta xuống, đặt một tay lên lồng ngực của thân hình bất động đó. Sau phút chốc lão lắc đầu và nhìn lại mọi người ở đằng sau, gương mặt lão kinh hoảng đến mức chẳng biểu lộ điều gì cả. Chạm ánh mắt bọn họ, nó thay đổi. Lão bật dậy và miễn cưỡng thông báo với bọn họ. “Mọi chuyện xong rồi.”

Bọn họ vẫn còn im lặng vây quanh ông ta. Hình hài vị Hoàng thân già, nằm bất động trên sàn, vẫn giữ được vị trí trung tâm trong khung cảnh cứ như thể ông chầm chậm bước lên thiên đường, còn bọn họ là môn đệ của ông, bị bỏ lại đằng sau, chằm chằm hướng nhìn về ông. Duy có Nino, hệt như một trong những nhân vật được đặt vào hoạt cảnh linh thiêng đóng vai chân dung con người đặt hàng để được tô vẽ vào tranh, dường như ngoái nhìn về một hướng khác.

Mặt trời, nhô cao trên nền trời xanh thẳm buổi đầu ngày, càng làm ánh lên vẻ lung linh mơ hồ của tấm vải len xanh phủ lên những đường cong nặng nề trên thân hình ông già nằm trên hiên nhà lát đá.

VIII. GIẢI THOÁT CHO KẺ BỊ GIAM CẦM

Khi những người gia nhân của vị Hoàng thân già nâng ông ta lên và khiêng vào trong nhà, Giovanni và Agnese bỗng nhận ra chỉ còn bọn họ đứng mặt đối mặt trên sân hiên vắng lặng. Ánh mắt u uẩn của họ chạm nhau, như thể đây mới là sứ mệnh sinh tử của cô trong buổi sáng mùa xuân đó, cô nhìn thẳng về phía cậu ta hồi lâu, tới khi con gà trống của bà chủ tửu quán - vốn là hậu duệ của con gà trống trong nhà của vị thầy tế lễ thượng phẩm Caiaphas(41), tổ tiên của nó được đoàn quân Thập tự chinh đưa về Pisa - cất xong tiếng gáy ngân dài. Lúc ấy cô quay đi theo bước những người khác vào lại trong nhà. Đúng lúc đó cậu ta lên tiếng, vẫn đứng im bất động. “Xin đừng rời đi,” cậu ta nói. Cô đứng lại chốc lát, chờ đợi, mà chẳng nói gì với cậu. “Xin đừng rời đi,” cậu ta lặp lại, “trước khi em để cho ta được phép nói đôi lời.”

“Em chẳng thể nghĩ,” cô nói, “ngài còn điều gì muốn nói với em.” Cậu ta đứng trân trân hồi lâu, trở nên vô cùng nhợt nhạt, như thể dồn hết sức lực vào câu nói, rồi cất lời khe khẽ, giọng như lạc đi:

Linh hồn ta ơi, kể từ dạo ấy

Đằng đẵng vùi trong, ám ảnh bóng nàng

Tủi hổ khôn kham, lòng ta run rẩy,

Cặp mắt này đây, mịt mù khôn thấy,

Đức hạnh thiêng liêng, đoạt mất ngàn vàng,

Khối tình muôn thủa, quyền lực nàng mang.(42)

Quãng im lặng thật dài và sâu lắng. Cô trông như biến thành bức tượng nhỏ trong khu vườn, nếu không kể làn gió ban mai nhẹ lay mái tóc suôn mềm.

“Ta bỏ em lại đó,” cậu ta nói, cất lời gần như kẻ mộng du, “rồi bỏ đi, mà tới ngưỡng cửa ta quay lại. Em ngồi dậy trên giường. Gương mặt em chìm khuất trong bóng tối, mà ngọn đèn tỏa chiếu trên đôi vai và tấm lưng. Em trần trụi, bởi ta đã xé toạc hết xiêm y trên người em. Chiếc giường buông những tầm rèm xanh vàng óng ánh, như khu rừng trên dãy núi đồi, và em hệt như bức họa Daphne(43) của ta, người quay lưng bỏ đi và bị hóa thành cây nguyệt quế. Rồi ta cứ đứng mãi trong bóng tối. Khi ấy đồng hồ điểm một giờ. Một năm qua,” cậu ta gào lên, “ta chẳng suy nghĩ được gì ngoài khoảnh khắc ấy.”

Hai con người trẻ tuổi lại rơi vào im lặng. Như những con rối buổi đêm hôm trước, bọn họ rơi vào bàn tay mạnh mẽ hơn chính họ nhiều, và chẳng thể hình dung ra chuyện gì sẽ xảy đến với mình. Cậu ta lại cất lời:

Đâm vào ta là cây gai ân hận

Khi tất cả bủa vây lấy tấm thân

Càng vây siết thì càng thêm oán giận

Nỗi giày vò cắn rứt cõi lòng ta

Ta gục ngã...(44)

Cậu ta ngừng lại bởi, dẫu đã nhắc đi nhắc lại với chính mình những dòng thơ ấy hằng bao lần, lúc này đây cậu ta chẳng thể nhớ ra được nữa. Hồ như cậu chìm vào cõi chết chóc, hệt như người địch thủ già của mình.

Cô quay lại nhìn cậu, vô cùng trang nghiêm, còn gương mặt biểu lộ vẻ bừng sáng và thanh thản, vẻ mặt do âm điệu của thi ca ban tặng cho những người yêu mến nó. Vô cùng chậm rãi, cô cất lời hướng tới cậu ta, bằng chất giọng ngọt ngào trong trẻo, như tiếng chim ngân nga:

...ôi nỗi sợ và lòng tủi hổ

Ta muốn ngài buông bỏ kể từ nay

Mai về sau sẽ chẳng còn say mộng.(45)

Cô ngoảnh đi chốc lát, hít làn hơi thật sâu, rồi giọng cô cất lên tràn đây sinh lực,

Rắn đập vỡ bình, âu cũng chuyện đã rồi;

Thôi hãy để kẻ làm điều tội lỗi;

Tin tưởng rằng Chúa chẳng khắt khe đâu.(46)

Nói xong cô rời đi, và dẫu cô đi qua gần đến mức cậu có thể giữ cô ở lại bằng cái với tay, nhưng cậu không hề cử động hay muốn chạm đến cô, chỉ giữ nguyên vị trí như thể ý muốn của cậu là đứng đó mãi mãi vậy, ánh mắt còn dõi theo cô tới tận khi cô bước vào nhà.

Augustus bước ra ngoài thềm cửa đúng lúc đó, tiến lại để gặp cô. Dẫu vẫn còn choáng váng sâu sắc vì những biến cố xảy đến sáng nay, và nhất là hình ảnh của vị Hoàng thân già, giờ nằm thanh thản và đường hoàng trên chiếc giường lớn trong tửu quán, lương tâm mách bảo chàng cần phải nỗ lực để đưa thông điệp của quý bà tới Pisa, và chàng muốn cô gái trợ giúp và dẫn đường cho mình đi tới đó. Đúng vào lúc ấy chàng cảm thấy, bởi lúc này đã hiểu hơn về toàn bộ câu chuyện dẫn đến bi kịch sáng nay, ngượng ngùng khi tiếp cận cô, một trong những nhân vật chính của tấn kịch, để đi nói về những chuyện vặt vãnh như đường xá xe cộ. Dẫu vậy, cô tiếp chàng như thể chàng là người thân thiết từ lâu khiến cô vui vẻ khi gặp lại. Cô cầm tay và nhìn chàng. Cô đã thay đổi, hệt như bức tượng bỗng hóa thành người sống, chàng nghĩ.

Nàng lắng nghe vô cùng chăm chú toàn bộ những điều chàng nói với mình, và dĩ nhiên, tỏ ra sốt sắng muốn mang tin tức tới cho người bạn thân nhanh nhất có thể. Cô đề nghị bọn họ nên đi cùng nhau trên chiếc xe nhỏ của cô, nó sẽ phóng nhanh hơn cỗ xe bốn bánh của chàng. Cô bảo với chàng rằng cô sẽ đích thân điều khiển nó.

“Người bạn của em ơi,” cô nói, “bọn ta hãy đi khỏi đây thôi. Mau đi tới Pisa ngay thôi. Bởi em được giải thoát rồi. Em có thể quyết định nơi mình sẽ đi, có thể nghĩ tới ngày mai. Em nghĩ ngày mai nhất định sẽ tươi sáng. Em có thể hồi tưởng lại hồi em mười bảy, và tạ ơn Chúa để cho em còn sáu mươi năm nữa để sống trên đời. Em không còn bị giam cầm trong khoảnh khắc ấy nữa. Chúa ơi!” vừa nói cô vừa đột nhiên rùng mình, “em chẳng thế nhớ gì về nó dù có gắng đến đâu.”

Cô trông như thể tay đua trẻ tuổi, tin chắc mình sẽ chiến thắng trong cuộc đua. Rõ ràng ý nghĩ cần mau chóng vào lúc này đã lôi cuốn hết toàn bộ suy nghĩ của cô. Khi bọn họ tiến vào trong tòa nhà, cô ngoái lại nhìn ra sân hiên.

“Chắc tất cả bọn em đều sai rồi,” cô nói. “Ông ta cao thượng và xứng đáng được yêu thương. Khi ông còn sống, bọn em chỉ mong ông ta chết đi, mà giờ ông mất rồi thì bọn ta tất cả lại mong ông quay trở lại.”

“Điều đó,” Augustus nói, vừa đương ngẫm ngợi về chính cuộc đời mình, “có lẽ khiến bọn ta nhận ra rằng bất kỳ con người nào chúng ta quen biết và gặp gỡ, suy cho cùng, là điều gì đó trong tâm trí ta, hệt như cái cây trông trong khu vườn hay vật dụng trong nhà mình. Tốt hơn hết là nên giữ lại và gắng sử dụng, hơn là vứt bỏ và rốt cuộc chằng còn lại gì cả.” Cô nghĩ về điều đó chốc lát. “Thế ngài Hoàng thân già nhất định sẽ,” cô nói, “ở trong khu vườn tâm trí em như suối nguồn hùng vĩ, dựng trên nền đá cẩm thạch đen, khi đến gần đó lúc nào cũng thấy mát mẻ và trong lành, để từ đó thác nước cuồn cuộn tuôn trào và tung tẩy. Em thi thoảng sẽ đến để ngồi đó, mỗi khi em bận lòng. Nếu em là Rosina em chắc sẽ chẳng tìm cách rời bỏ ông. Em sẽ khiến ông hạnh phúc. Sẽ là điều tốt lành nếu như ông ấy được hạnh phúc; thật nghiệt ngã khi bắt ai đó chịu bất hạnh.”

Augustus, nghĩ rằng mình cảm nhận thấy vẻ tiếc nuối muộn màng trong giọng nói của cô, liền an ủi: “Hãy nhớ rằng em vừa cứu được một mạng người.” Cô thay đổi sắc diện và im lặng hồi lâu. Rồi cô quay sang nhìn chàng với vẻ vô cùng nghiêm trang. “Thế ai,” cô nói, “sẽ đứng ra bênh vực và chịu lắng nghe con người bị sỉ nhục bất công đó?”

Ngay lập tức cỗ xe của cô đã sẵn sàng, bọn họ khởi hành tới Pisa và phóng hết tốc lực. Ngày hôm đó dần trở nên ấm áp, đường bụi mù, bóng của những hàng cây in dưới mặt đường. Augustus để lại địa chỉ cho viên bác sĩ già đề phòng trường hợp có gì cần điều tra, mà dầu sao thì ngài Hoàng thân già đã qua đời theo lẽ tự nhiên mà.

IX. MÓN QUÀ CHIA TAY

Bá tước Augustus von Schimmelmann đến ở tại Pisa hơn ba tuần rồi và trở nên yêu mến nơi này. Chàng đã trải qua chuyện yêu đương với một cô nương Thụy Điển, lớn tuổi hơn chàng, nàng đến Pisa để rời xa người chồng, và có một sân khấu nhạc kịch nhỏ để làm nơi trình diễn trước người mến mộ. Nàng là môn đệ của Swedenborg(47), đã kể cho Augustus nghe rằng nàng từng mơ thấy cảnh chàng và nàng ở thế giới bên kia. Điều thật sự khiến chàng thấy thú vị là nỗ lực của hai vị linh mục, một già và một trẻ, muốn chàng cải sang Công Giáo(48). Chàng không có ý định gia nhập, vậy nhưng điều khiến chàng ngạc nhiên và thích thú là sao người ta lại quyết dốc tâm huyết nhiều đến thế đối với tâm hồn chàng, khiến chàng phải bỏ nhiều công sức để giải thích với các giáo sĩ về quan niệm và trạng thái tinh thần của mình. Mặc dầu vậy, chàng có thể thấy trước màn cám dỗ tâm linh này chẳng thế kéo dài mãi được, mà sẽ, hệt như, thật không may, mọi chuyện cám dỗ khác, đi đến kết thúc theo cách này cách khác, rồi chàng bắt đầu bỏ nhiều thì giờ đến một hội kín chính trị, đó là nơi chàng được giới thiệu trong vai trò người đến từ một đất nước tự do hơn. Trong những phiên thảo luận, chàng gặp một người thuộc phái Jacobin(49) đích thực ngày trước, một kẻ lưu vong, một cựu thành viên của phe Núi, từng là bạn của Robespierre. Augustus thường đến thăm ông trong gian buồng nhỏ tối tăm và bẩn thỉu nằm ở tầng cao trong tòa nhà dột nát, để trao đổi về tự do và chuyên chế với ông. Chàng cũng tham gia những buổi học vẽ, và đã bắt tay vào sao chép một bức họa cổ trong gian trưng bày.

Một ngày nọ chàng nhận được thư từ bà Bá tước di Gampocorta, người lúc này ngụ tại biệt thự của mình gần Pisa và mời chàng đến thăm bà. Bà viết với lòng biết ơn và thân mật vô cùng, cho chàng biết tin tức . Lúc nghe tin báo, cùng một lúc, về tai nạn của người bà và cái chết của người chồng cũ, nàng Rosina đã phải được dìu về bên nôi em bé, đứa nhỏ được đặt tên thánh là Carlo theo tên bà cố mình, bà miêu tả về đứa bé như thể là đứa bé tuyệt vời nhất thế gian. Cả hai người đàn bà, một già một trẻ đều hồi sức trở lại, dẫu bà Bá tước có viết rằng bà không còn hy vọng gì có thể cử động lại được bàn tay phải, và bọn họ tha thiết muốn bày tỏ lòng cảm tạ vì sự giúp đỡ mà chàng đã dành cho bọn họ vào lúc bức thiết.

Augustus cho đánh xe ra để tiến về biệt thự của quý bà vào buổi chiều một ngày vô cùng oi bức. Khi chàng gần đến nơi, cơn dông lơ lửng trên bầu trời Pisa suốt ba ngày qua bỗng đổ sập xuống. Sắc màu và mùi lưu huỳnh lạ lùng ngập tràn trong không khí, những thân cây đại thụ u tối ven đường đi ngả nghiêng dưới những trận gió thét gào. Vài tia chớp dữ dội tưởng như bổ xuống sát sạt cỗ xe, rồi kéo theo tiếng sét ầm vang liên hồi. Rồi xuất hiện cơn mưa nặng hạt xối xả, trong khoảnh khắc ấy toàn bộ khung cảnh trước mắt chàng bị che mờ, đương ngồi trong cỗ xe che kín, phía sau làn nước lấp lánh xám xịt. Khi băng qua cây cầu đá với gờ lan can thấp chàng nhận ra cơn mưa trút xuống dòng sông tối tăm như thể hàng trăm mũi tên lao xuống. Bọn họ leo dọc theo con đường đồi đá sỏi và dốc đứng, giờ trơn trượt trong cơn mưa, và khi dừng bước tại chân cầu tháng đá phía trước tòa dinh thự, người gia nhân với chiếc ô lớn chạy xuống che cho vj khách tiến lên nhà.

Trong gian phòng vô cùng rộng rãi mở ra trên khoảnh sân hiên dài lát đá là khung cảnh nhìn ra dòng sông, tiếng lộp độp liên hồi của những giọt mưa nặng hạt trên bậc thềm đá thật tách biệt như thể nó cũng ở trong một gian phòng riêng vậy. Xuất hiện cùng với nó, qua khung cửa cao để mở, bất thình lình là thứ mùi ẩm ướt và tươi mát lan ra trong không khí, và thứ mùi của thềm đá nóng bỏng được làm mát dưới làn nước. Bản thân gian phòng thoảng hương hoa hồng. Cuối góc phòng là vị abbate(50) già đương dạy một cô bé học đánh đàn dương cầm, mà bọn họ ngưng lại vì tiếng ầm ầm của sấm sét và gió mưa, cản trở việc đếm nhịp, và lúc này đương ngắm nhìn dòng sông và thung lũng.

Bà Bá tước và người mẹ trẻ, ngồi trên tràng kỷ, sai đưa đứa bé đến để ngắm nhìn. Nó được ẵm trên tay người vú nuôi, một phụ nữ trẻ vô cùng phương phi da dẻ hồng hào, hệt như bông hoa trúc đào, còn đứa bé vô cùng nhỏ nhắn, như thể quả táo nướng xinh xinh được thắt thêm dải ruy băng viền đăng ten to bản. Sự chú ý của bọn họ phần thì hướng về đứa bé phần thì nhìn ra cơn bão, và cả hai điều đó mang đến trạng thái hân hoan, như thể cuộc sống của bọn họ chạm tới thời khắc viên mãn.

Quý bà, muốn đứng dậy ra tiếp chàng, mà không kìm nén được cảm xúc khi thấy Augustus khiến bà chẳng cử động được. Ánh mắt bà, dưới hàng mi già nua, giống như dải nhiễu đen, ậng lên hàng nước mắt, mà đôi lần trong khi bọn họ trò chuyện nó lại lăn xuống trên gương mặt. Bà hôn lên cả hai má chàng, giới thiệu với chàng bằng tình cảm nhiệt thành về cháu gái bà, thiếu nữ quả thực là duyên dáng như bất kỳ nàng Madonna nào chàng từng thấy ở nước Ý, với một chút vẻ kiêu kỳ trần tục càng khiến cô trở nên hoàn hảo; còn về phần đứa bé. Augustus chưa bao giờ biết đến cảm giác nào khác ngoại trừ nỗi sợ hãi khi phải đối mặt với trẻ sơ sinh – dẫu bọn trẻ có thể, chàng nghĩ, mang tới ích lợi hay sự hứa hẹn nào đó – và chàng sửng sốt nhận ra rằng những người phụ nữ ở đây đều cho rằng đứa bé đó ở giai đoạn này đã đạt tới tột đỉnh của sự hoàn mỹ, và thật là bi kịch khi điều đó rồi sẽ phải thay đổi. Quan điểm này, điều cho rằng loài người lên tới tột đỉnh lúc sinh thành rồi tụt dốc về sau, gây ấn tượng với chàng rằng có vẻ dễ dàng để theo đuổi hơn là quan điểm của chàng.

Quý bà đã thay đổi kể từ ngày chàng gặp trên đường. Thứ tình yêu dành cho nam giới, điều bà từng bảo với chàng rằng bà hoàn toàn không hề có, thì giờ lại vây bọc lấycuộc đời bà trong mối hòa hợp ngọt ngào và cao cả. Tự bà nói với chàng trong lúc trò chuyện. “Hồi ta còn là con bé con,” bà nói, “Ta được chỉ bảo rằng đừng bao giờ cho rằng thứ gì đó là ngớ ngẩn khi nó còn chưa hoàn thành. Mà chính Đức Chúa còn định làm gì với chúng ta nữa đây trong suốt cuộc đời bọn ta? Giả như được trông thấy đứa bé này thì ngay từ đầu ta đã ngoan ngoãn vâng lời và để Chúa dắt lối ta đi tới bất cứ phương trời nào ngài muốn. Cuộc đời là bức khảm của Chúa, trên đó ngài cứ dần dần lấp đầy từng mảnh một. Giả như ta thấy được mảnh nhỏ sáng màu này ở trung tâm, ta sẽ hiểu được mẫu hoa văn đó, và sẽ chẳng làm xáo trộn toàn bộ các mảnh đó lên hằng bao lần, rồi đem đến hằng bao mối muộn phiền cho Đức Chúa lòng thành để sắp đặt chúng ngay ngắn trở lại.” Chuyển sang chuyện khác, đa phần bà nói về vụ tai nạn và buổi chiều bọn họ ở bên nhau trong quán trọ. Bà trò chuyện với niềm hứng thú vô cùng khi nghiệm ra những điều được coi là giá trị vì biến cố xảy đến trong quá khứ, lại chẳng còn quan trọng vào lúc này.

Người gia nhân mang rượu và ít quả đào ngon tuyệt lên rồi đến người bố trẻ tiến vào và được giới thiệu với vị khách; mà anh ta đóng vai trò trong bức tranhchẳng khác gì hơn vị Đạo Sĩ nhỏ tuổi nhất đến để tôn sùng, bà Bá tước thì tự mình đảm nhiệm lấy vai Joseph.

Khi mưa đã ngớt, quý bà đưa Augustus đến bên khung cửa sổ để ngắm nhìn ngoài trời. “Anh bạn thân mến của ta,” bà nói, trong khi bọn họ đứng đó cùng nhau, hơi tách biệt khỏi mọi người, “Ta chẳng biết làm sao cho phải để bảy tỏ lòng cảm tạ dành cho cậu, mà ta muốn trao cho cậu một vật kỷ niệm nho nhỏ để hãy nhớ về ta, lúc cậu rời khỏi nơi này, và ta hy vọng rằng cậu sẽ trao cho ta niềm vui đồng ý nhận lấy.”

Augustus đương nhìn ra quang cảnh bên dưới. Vẻ gì đó mơ hồ quen thuộc nơi đây đánh động trong tâm trí và khiến chàng cảm thấy hơi choáng váng.

“Khi lần đầu bọn ta gặp nhau,” bà tiếp lời, “ta có nói với cậu rằng ta yêu thương ba người trong suốt cuộc đời. Về hai người kia cậu đã biết. Người thứ ba và là đầu tiên là một thiếu nữ cùng thời với ta, một người bạn đến từ đất nước xa xôi, người mà ta chỉ quen biết trong duy nhất một khoảng thời gian ngắn ngủi rồi không còn gặp lại nữa. Mà bọn ta đã hứa sẽ nhớ về nhau mãi mãi, và ký ức về cô hằng bao lần truyền cho ta nghị lực vượt qua những thăng trầm trong cuộc sống. Khi bọn ta chia tay, trong nước mắt, bọn ta trao cho nhau món quà lưu niệm. Bởi vì đó là thứ quý giá đối với ta và vật kỷ niệm của tình bạn đích thực, ta muốn cậu giữ nó bên mình.”

Sau những lời đó bà rút từ trong túi ra một vật nhỏ và trao nó cho chàng.

Augustus ngắm nhìn, và trong vô thức, bàn tay chàng đặt lên trên ngực. Đó là lọ muối ngửi nho nhỏ hình trái tim. Trên đó vẽ hình phong cảnh với rừng cây, trên nền cảnh trí đó là tòa dinh thự màu trắng. Khi chăm chú nhìn chàng nhận ra đó là tòa dinh thự của chính chàng ở Đan Mạch. Chàng biết rõ kiểu mái cao của vùng Lindenburg, thậm chí có cả hai cây sồi già phía trước cổng vào, và con đường dài với hàng cây đoạn(51) sau nhà. Băng ghế đá dưới những cây sồi được tô vẽ vô cùng tỉ mỉ. Bên dưới, trên dải ruy băng trang trí, ghi dòng chữ Amitié sincère.

Chàng có thể cảm nhận thấy chiếc lọ nhỏ của mình trong túi áo gi-lê, suýt định lôi ra và đưa cho quý bà xem. Chàng cảm thấy rằng nó sẽ tạo nên một câu chuyện khiến bà sẽ mãi mãi khắc ghi và còn nhắc đi nhắc lại; rằng có khi đến phút lìa xa cõi thế nó còn xuất hiện trong suy nghĩ cuối cùng của bà. Mà chàng bị kìm nén bởi thứ cảm xúc, đó là, ý trời đã định, điều gì đó chỉ có ý nghĩa cho riêng chàng – một điều đáng giá, một điều thầm kín, thậm chí là một chốn ngơi nghỉ trong cuộc đời mà chỉ thuộc về riêng chàng thôi, và đó là điều chàng không thể chia sẻ với bất kỳ ai giống như chàng không thể chia sẻ về những mộng ước của chàng vậy.

Chàng cảm tạ quý bà với hằng bao xúc cảm, và khi bà nhận ra món quà của bà được trân trọng bà đáp lại chàng bằng niềm hãnh diện và vẻ nghiêm trang.

Chàng chia tay quý bà đáng mến và cặp đôi trẻ, bày tỏ hết thảy tình bằng hữu chân thành, rồi lên đường về Pisa.

Mưa đã tạnh hẳn. Bầu không khí ban chiều se lạnh. Tia nắng vàng vọt và bóng chiều tàn xanh thẳm đan xen trong khung cảnh. Có chiếc cầu vồng thấp thoáng nhô lên trên nền trời.

Augustus lấy tấm gương nhỏ ra khỏi túi. Giữ nó trong lòng bàn tay, chàng trầm ngâm ngắm nhìn vào trong đó.

Truyện của Isak Dinesen / Nguyễn Tuấn Bình dịch


1. Nguyên văn tiếng Ý, có nghĩa là “tửu quán”.

2. Vở opera ba màn của nhà soạn nhạc người Đức Christoph Willibald Gluck. Người viết lời cho vở opera này là Calzabigi. Tác phẩm được trình diễn lần đầu tiên tại thủ đô Viên của Áo vào năm 1767.

3. Vở opera hai màn do Wolfgang Amadeus Mozart soạn nhạc và Lorenzo da Ponte viết lời. Nó được trình diễn lần đầu tiên ở Praha vào ngày 29 tháng 10 năm 1787. Viết theo tiếng Ý, tên "Don Giovanni" có thể được phiên âm là "Đông Gioăng".

4. Nguyên văn tiếng Pháp, có nghĩa là: Tình bạn chân thành.

5. Tiếng Pháp trong nguyên văn, có nghĩa là: “hợp với lẽ thường tình.”

6. Ferdinand III (1199/1201-1252), được gọi là Thánh (el Santo), là Vua của Castile từ năm 1217 và Vua của León từ năm 1230 cũng như Vua của Galicia từ năm 1231. Ferdinand III là một trong những vị vua thành công nhất của Castile.

7. Gaius Cilnius Maecenas (khoảng 70-8TCN) là người tham mưu cho Octavian (sau khi lên ngôi là Hoàng đế Augustus). Ông là người bảo trợ quan trọng cho thế hệ nhà thơ mới dưới triều đại Augustus, gồm cả Horace và Virgil. Giờ đây tên ông dùng để ám chỉ vị mạnh thường quân, nhà bảo trợ nghệ thuật.

8. Anne Louise Germaine de Staël (1766-1817), thường được gọi là Madame de Staël, nữ văn sĩ Pháp nổi tiếng thời đó.

9. Nguyên văn là Milord, là tước hiệu chỉ nhà quý tộc Anh hay du hành châu Âu.

10. Tiếng Ý trong nguyên văn, có nghĩa là: “nữ danh ca”.

11. Câu thơ này nằm tại phần Bi kịch - khúc “Khúc dạo đầu trên thiên đường”, tôi lấy theo bản dịch Faust của Quang Chiến, NXB Văn học, Nhã Nam phát hành 2023, trang 21. Đó là lời của Đức Chúa.

12. Một nhân vật điển hình trong hài kịch, nổi tiếng tham lam và có địa vị cao trong xã hội.

13. Tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa là: “tên tuổi”.

14. Tiếng Ý trong nguyên văn, nghĩa là: “Cung đình.”

15. Tiếng Ý trong nguyên văn, nghĩa là: “Người ứng tác.”

16. Domenico Cimarosa (1749-1801), nhà soạn kịch nổi tiếng người Ý.

17. Francesco Redi (1626-1697) là nhà khoa học và nhà thơ người Ý, sinh ra tại vùng Tuscany.

18. Hoàng hậu Mathilda (1102-1167) trải qua nhiều cương vị, từng làm nhiếp chính tại triều đình Ý.

19. Chàng hoàng tử Đan Mạch trong vở kịch lừng danh “Hamlet” của Shakespeare.

20. Nhân vật trong vở kịch nói trên.

21. Nhân vật trong vở kịch nói trên.

22. Vở kịch Hamlet của William Shakespeare diễn ra trong Lâu đài Kronborg ở Helsingør, mà Shakespeare gọi là "Elsinore".

23. Tycho Brahe (1546 -1601) là nhà thiên văn học, nhà chiêm tinh học Đan Mạch, được coi là người sáng lập môn thiên văn quan sát trước khi có kính viễn vọng.

24. Tiếng Ý trong nguyên văn, có nghĩa là: “Ngài”.

25. Nguyên văn bằng tiếng Ý, có nghĩa là: “buổi đàm luận.”

26. Nguyên văn bằng tiếng Ý, có nghĩa là: “Quý cô.”

27. Danaë là bức họa do họa sĩ thời Phục hưng người Ý Correggio thực hiện khoảng năm 1531.

28. Vincenzo Monti (1574-1828) là nhà thơ, nhà soạn kịch người Ý.

29. Tiếng Ý trong nguyên văn, có nghĩa là Đức Ông, tước vị trong Công giáo do Giáo hoàng ban tặng cho một số linh mục có công trạng.

30. Vở The Misanthrope của Molière.

31. Trích Kinh thán phần Mark 9:48.

32. Thần Bacchus là vị thần của rượu Nho trong thần thoại Hy Lạp.

33. Tiếng Pháp trong nguyên văn, có nghĩa là: “chết sao cho xứng.”

34. Trong tác phẩm tác giả dùng theo tiếng Ý là aziola.

35. Tên vị thần rượu nho trong thần thoại Hy Lạp.

36. Nguyên văn Revenge of Truth, đây thực ra là tên vở kịch múa rối do chính tác giả Isak Dinesen viết ra năm 1926.

37. Đây là một “sáng tác” của Dinesen dựa trên cậu chuyện trong Kinh Thánh. Nhân vật trong tích truyện “Joseph và người vợ của Potiphar” trong Kinh thánh Hebrew, phần chung của Kinh Thánh quy điển của Do Thái giáo và Ki-tô giáo. Potiphar là người đứng đầu đội cận vệ của Pharaoh, đã mua Joseph về làm nô lệ bởi ấn tượng trước trí thông minh của anh này, biến anh ta thành người quản gia. Vợ của Potiphar, nổi tiếng không chung thủy, thích Jospeh và cố gắng quyến rũ anh này. Khi Joseph từ chối và bỏ chạy, bỏ lại chiếc áo mặc ngoài trên tay ả, ả đã trả đũa bằng cách vu cho anh ta cố ý cưỡng hiếp mình, và Potiphar đã tống giam Josheph. Ở trong tù Joseph làm quen người bạn tù và người này sau đó giới thiệu Joseph với Pharaoh và được lên làm Tể tướng. Joseph được Đức Chúa phù hộ nên có biệt tài giải đoán các giấc mơ. (Sáng Thế 39-43).

38. Ngôi sao thuộc chòm sao Kim Ngưu.

39. Thần Jupiter trong thần thoại La Mã là vị thần của bầu trời và sấm sét.

40. Nguyên văn là yard, bằng 0.914m.

41. Caiaphas (14TCN-46SCN) trong Kinh Tan Ước là vị thầy tế thượng phẩm người Do Thái. Con gà trống có gốc gác từ Kinh thánh gáy lên ba lần, đó là hình ảnh hàm ý bội phản, bởi nó khơi gợi đến con gà trống gáy ba lần khi Peter chối Chúa.

42. Trích Thần Khúc - Phần 2 Luyện Ngục - khúc 30, từ câu thơ 34 của Dante (Tôi gắng dịch giữ đúng tinh thần tác phẩm, tham khảo bản dịch tiếng Anh của Henry Wadsworth Longfellow, http://dantelab.dartmouth.edu/reader, 1867).

43. Tiên nữ trong thần thoại Hy Lạp, chối bó tình yêu của thần Apollo và biến thành cây nguyệt quế.

44. Trích Thần Khúc - Phần 2 Luyện Ngục - khúc 31, từ câu thơ 85 của Dante.

5. Trích Thần Khúc - Phần 2 Luyện Ngục - khúc 33, từ câu thơ 31 của Dante.

46. Trích Thần Khúc - Phần 2 Luyện Ngục - khúc 33, từ câu thơ 34 của Dante.

47. Emanuel Swedenborg (1688-1772) là nhà khoa học, triết học, thần học, huyền học người Thủy Điển. Ông nổi tiếng với tác phẩm Thiên đàng và Địa ngục (1758) nói về thế giới bên kia.

48. Hầu hết các nhân vật Bắc Âu của Dinesen đều theo Tin Lành.

49. Câu lạc bộ Jacobin, tên chính thức là Hiệp hôi những người bạn của Hiến Pháp, sau năm 1792 đặt lại tên thành Hiệp hội Jacobins, Những người bạn của Tự do và Bác ái là câu lạc bộ chính trị nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất trong tiến trình Cách mạng Pháp.

50. Tiếng Ý trong nguyên văn, có nghĩa là: “vị tu viện trưởng.”

51. Còn gọi là cây linden, loài cây thân gỗ có nguồn gốc chủ yếu tại khu vực ôn đới ở Bắc bán cầu.

Trận lụt tại Norderney - Truyện của Nhà văn Đan Mạch Isak Dinesen Bên trong mặt nạ “Cái chết đỏ” Viết cho Esmé Với tình yêu và tiếng thét Tượng thi hào - Truyện ngắn của Slawomir Mrozek Konstantin Simonov - Hai diện mạo trong một cuộc đời
Nhà thơ Chu Thùy Liên: Ngẩn ngơ nhìn hoa mận trắng

Nhà thơ Chu Thùy Liên: Ngẩn ngơ nhìn hoa mận trắng

Baovannghe.vn - Mùa hoa mận của Chu Thùy Liên là mùa xuân rộn ràng của núi rừng Tây Bắc, ở đó tác giả gửi gắm những điều tốt lành như ước mơ ai cũng được thả lên trời cao và lời chúc cho những người con của quê hương dù đi đâu xa đều gặp may mắn, duyên lành để "nhớ lối trở về".
Di sản bất hòa ở Đông Âu

Di sản bất hòa ở Đông Âu

Baovannghe.vn - Tinh thần dám đối diện với quá khứ, dám chấp nhận sự đa dạng của văn hóa đã giúp các quốc gia Đông Âu và cả châu Âu bước qua nhiều trở ngại để bảo tồn và khai thác khối di sản kiến trúc XHCN ở Đông Âu.
Sầm Sơn trong thơ ca xưa và nay

Sầm Sơn trong thơ ca xưa và nay

Baovannghe.vn - Sầm Sơn đang góp phần đưa tỉnh Thanh Hóa đứng top đầu các tỉnh phía Bắc trong phát triển kinh tế, văn hóa...
Quả chuối dán trên tường được bán với giá 6,24 triệu đô la

Quả chuối dán trên tường được bán với giá 6,24 triệu đô la

Baovannghe.vn - Ngày 20 tháng 11 năm 2024, quả chuối mang tên Comedian của Maurizio Cattelan đã được bán tại nhà đấu giá Sotheby’s với giá 6,24 triệu đô la, trở thành tác phẩm nghệ thuật gây tranh cãi nhất trong giới nghệ thuật đương đại. Một quả chuối dán tường với cuộn băng keo đã tạo nên cơn sốt toàn cầu, không chỉ vì giá trị vật chất, mà còn vì các câu hỏi nó đặt ra về giá trị thực sự của nghệ thuật.
Thông cáo báo chí số 22, Kỳ họp thứ Tám, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 22, Kỳ họp thứ Tám, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 21/11/2024, Quốc hội tiếp tục ngày làm việc thứ 22 (Kỳ họp thứ Tám, Quốc hội khóa XV) tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.