Cho nên, có những tác giả không được nhớ tên, cả truyện ngắn cũng không được nhớ đến, nhưng có chi tiết trong truyện lại khiến người ta nhớ mãi. Bờ sông lặng sóng - tác phẩm được trao giải Nhì cuộc thi Truyện ngắn báo Văn nghệ 2022 - 2024 của Vũ Ngọc Thư có thể nói đã gom được những chi tiết rất con người, rất đời thường, rất bình dị, đi vào chiều sâu tâm lí phức tạp, khiến lòng người đau đáu. Nỗi đau chiến tranh và hậu chiến dù ở đâu, thời nào, với ai cũng là những nỗi đau chỉ có thể chữa lành bởi không có cuộc chiến nào từng diễn ra.
|
- Thưa tác giả Vũ Ngọc Thư, con đường nào đưa ông đến với văn chương?
Tôi không có áp lực phải viết. Nhưng tôi viết để giải tỏa, viết để trả ơn những người đồng đội của tôi, họ đã hi sinh để tôi được trở về, dù trở về không nguyên vẹn cơ thể. Tôi viết để trả ơn làng quê, nơi đã sinh ra và là nơi tôi vật vã bao năm để trở thành người.
Trước khi viết văn, tôi là người làm thơ, tôi làm thơ rất sớm, từ ngày còn ở rừng tôi đã có thơ đăng báo. Thực ra tôi cũng chưa bao giờ nhận mình là nhà thơ, mặc dù tôi đã viết khá nhiều thơ, đã có nhiều thơ đăng trên các báo, các tạp chí, nhiều nhất vẫn là trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, và tôi đã đoạt giải trong một cuộc thi thơ, năm 2010 - 2011 của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Tôi đến với văn xuôi khá muộn, chỉ khi trong đầu tôi, những dữ liệu đòi hỏi phải được viết ra, viết truyện, viết kí, viết ra từ hồi ức. Và thế là tôi viết.
Những bài thơ, những truyện ngắn hay những bài kí của tôi, thường gắn liền với đề tài người lính và chiến tranh cách mạng. Đề tài ấy tôi còn khai thác đến đáy sâu, bởi vì tôi là người lính đi qua cuộc chiến ấy.
- Chúng tôi đọc truyện ngắn dự thi Bờ sông lặng sóng ngay khi thư gửi đến. Đoạn đầu rất “khó vào”, nhưng dần dần thấy lấp lánh và cuốn hút. Truyện ngắn này đã hình thành trong hoàn cảnh nào?
Truyện ngắn Bờ sông lặng sóng, tôi viết vào một ngày mưa, ngày mưa thường là ngày buồn, và ngày buồn ấy tôi đã nhớ lại những ngày gian khổ, người dân nước ta, sống trong thời bao cấp. Thời bao cấp, người lính trở về càng khổ. Bởi khi buông tay súng, người lính chả còn gì trong tay nữa cả. Viết Bờ sông lặng sóng, tôi lại nhớ về hình ảnh ngày tôi còn ở trên bãi Hàn làm gạch. Tôi lại nhớ về một cô bé loắt choắt, da mốc meo, mặt quắt đen xạm, theo bố, một người cựu chiến binh ra bãi Hàn làm gạch. Chiến tranh đã đi qua, lá cờ đã tung bay trên cột cờ. Nhưng dưới chân cột cờ là xương máu, là những uẩn khúc, những éo le của chiến tranh để lại. Rất nhiều người hi sinh vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ, rất nhiều người bị thương, mà chưa được công nhận là thương binh. Lí do. Vì không còn hồ sơ, vì đơn vị sau chiến tranh đã giải tán, không còn chứng cứ để công nhận. Những éo le uẩn khúc trong chiến tranh còn rất nhiều, cần phải tháo gỡ. Chỉ có điều, tháo gỡ làm sao cho có lí có tình.
Bờ sông lặng sóng chỉ là một nút gỡ trong hàng vạn nút vẫn còn chưa gỡ được, và có nút chưa tìm được điểm mấu chốt để gỡ.
- Trong 2.700 truyện ngắn được gửi về Cuộc thi, và trong số 253 tác phẩm dự thi được đăng tải trên Báo Văn nghệ, “Bờ sông lặng sóng” là một trong số truyện ngắn nhận được nhiều phản hồi của độc giả. Có khen, có chê. Tuy vậy, theo tôi, đây là một câu chuyện có sức nặng từ chi tiết. Chi tiết người cha dắt con gái rời nhà đi, nhưng cả đêm anh vô thức trở về chính cánh cổng ngôi nhà của mình tới vài lần, cho đến khi anh quyết định lên chuyến xe tình cờ ngang qua làng, vì sợ cái “vô thức” dẫn lối đó. Rồi chi tiết người cựu binh quyết định quay về với vợ cũ, nhưng anh vẫn giữ sự xa cách với chị, có người nói “anh ta ác”, nhưng tôi lại thấy đó mới là một con người, rất thật, yêu, ghét, đau khổ, hạnh phúc đều rất đời. Ông có trau chuốt cho các chi tiết đó và các chi tiết khác trong truyện không? Hay chúng ào đến một cách tự nhiên như chính nó cần như thế?
Không chỉ ở tình tiết Thảo dắt con gái đi, quẩn quanh mãi trong đêm, anh ấy lại quay về ngõ nhà mình. Có một lần trước khi về dắt bé Nhung đi, Thảo cũng đã trở về, anh ấy đứng ngoài đầu ngõ, nơi sương đêm mùa đông giá buốt, người ướt đẫm sương, nhìn vào ngôi nhà, nơi anh sinh ra và lớn lên, nơi bé Nhung cất tiếng chào đời, vậy mà anh ấy lại vội vã bắt tàu vào Nam, anh ấy không dám đối chứng những gì đang xảy ra trong ngôi nhà mình. Bởi anh ấy là người đã “hi sinh”. Anh ấy không được phép vào ngôi nhà ấy, ngôi nhà mà vợ anh ấy, chị Mai đã thầm lặng chờ chồng, thầm lặng chịu tang chồng ba năm. Ngôi nhà mà người đồng đội của anh, đã ghé vai nhận trách nhiệm thay anh nuôi nấng dạy dỗ bé Nhung. Vậy, Thảo không thể phá vỡ hạnh phúc của những người đã vì anh. Anh ấy đã “chết” rồi. Cái vô thức của Thảo là lí do ấy. Cái vô thức cũng đã khó xa được, chứ đừng nói cái thực của đời người phải xa. Cái thực của cuộc đời bắt anh ấy phải nhận ra. Đời anh ấy chỉ còn bé Nhung, còn vợ anh ấy đã có tổ ấm, một tổ ấm có Huấn, có thằng Cang. Nếu Thảo không dắt được bé Nhung đi, thì đời người lính trở về sau cuộc chiến là quá bạc bẽo.
Đã viết truyện ngắn tất nhiên phải trau chuốt chi tiết. Cái tình tiết Thảo trở về với Mai là tình tiết rất thực của người quê, nhất là người quê đã từng là người lính. Chỉ có điều, nỗi giằng xé ở trong lòng một con người, nó phải đến, chẳng ai vô tư mà chấp nhận những tháng ngày đảo lộn ấy một cách nhanh chóng được. Nỗi giằng xé để Thảo không ra khỏi nhà, cả ngày chỉ ngồi nơi cái bàn, tay ve thuốc lào, ve đến xăn lại mới cho vào nõ điếu, anh châm đóm, châm đến ba lần, rồi anh lại để chiếc điếu vào góc chân bàn không hút. Nỗi giằng xé ấy chỉ được giải thoát bởi người lính thứ ba: Chú Thân.
Tôi viết Bờ sông lặng sóng khá suôn sẻ. Hình như cái mạch nguồn, nằm trong những dữ liệu của những năm tháng mà tôi ở bãi Hàn ập về, nó như dòng chảy của con suối, chỉ có tuôn chảy chứ không thể ngừng, và Bờ sông lặng sóng được hoàn thành.
- Tại một trong hai cuộc thi truyện ngắn gần nhất của Báo Văn nghệ, từng có một tác giả nói về tác phẩm của mình khi tác phẩm được trao giải cao: “Truyện ngắn này là trời cho tôi.” Tôi nghĩ, đối với mỗi nhà văn, tác phẩm “trời cho” không nhiều, thậm chí có người cả đời không được trời cho tác phẩm nào. Nhưng dù trời cho nhiều hay ít, cuối cùng nhà văn cần hướng tới sự chuyên nghiệp. Ông nghĩ gì về sự chuyên nghiệp của nhà văn, dù nhà văn có viết vì áp lực phải viết hay không?
Tính chuyên nghiệp với người viết là cần thiết, bởi người viết đề cao tính chuyên nghiệp, thì họ sẽ nghiêm túc tìm tòi và sáng tạo, sự tìm tòi cũng phải nghiêm túc, thì mới có được tình tiết tìm tòi sáng tạo đắt giá, còn tìm tòi hời hợt, sẽ chỉ được những chi tiết rẻ bèo. Người viết đề cao tính chuyên nghiệp, thì câu chuyện của họ sẽ có logic, sự gắn kết của câu chuyện được kết nối với nhau bền chặt. Cho nên, người mới cầm bút viết, hay đã viết được một ít tác phẩm rồi, hãy đề cao tính chuyên nghiệp. Bên cạnh tính chuyên nghiệp là sự sáng tạo, hãy cởi lòng mà viết, hãy để cho mạch nguồn cảm xúc tuôn chảy, và ngòi bút sẽ ghi lại mạch nguồn cảm xúc ấy trong trang viết của mình.
Người viết bất chợt gặp được ở trong đầu một tình tiết hay. Hãy nắm bắt lấy nó, đấy là “lộc trời cho”. Nhưng cái tình tiết ấy có phát triển thành một câu chuyện hay, hay không thì lại ở người viết. Tôi thường nghĩ, những tình tiết sự việc, những ngôn từ, trong các truyện nó ở ngay trong cuộc sống đời thường, ngay trong những sinh hoạt thường ngày, trong một gia đình, trong một làng quê, trong cộng đồng xã hội, thậm chí nó chỉ ở trong một hai người quen thân của chúng ta. Nhưng có một điều. Những tình tiết sự việc ấy, dữ liệu có nằm ở trong vốn sống của người viết hay không, và nó có đủ dữ liệu thành một truyện ngắn hay, hay không. Tôi cũng đã có vài lần nắm bắt được tình tiết mà tôi thích, và tôi đã viết, nhưng rồi truyện viết xong, ngay cả tôi đã không chấp nhận được, chứ chưa nói đến độc giả.
Lộc trời có thể ở những người viết đầy ắp dữ liệu về một vùng miền, về nơi mà họ đã ở đã đến, và họ đã thu thập được nhiều dữ liệu đáng quý. Tôi đã đọc đến chục đầu sách của nhà văn Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư. Với Đỗ Bích Thúy, nhân vật của chị trong những câu chuyện, vẫn chỉ như Vừ, như Pao, như Súa. Vậy mà sao chị viết đến hàng trăm truyện vẫn không bị trùng lặp, người đọc vẫn thấy cái mới trong truyện của chị. Đấy là nhà văn đã nắm bắt được tập tục của người dân tộc miền Tây Bắc, nắm bắt được từng ngôi nhà người Mông, hay từ những chi tiết nhỏ, con ngựa thồ nặng bước lên dốc, nó phải gồng rướn mình thế nào, khi xuống dốc, nó phải dồn nén chân thế nào, để không bị lao trôi xuống vực. Với Nguyễn Ngọc Tư, thì là vẻ đẹp của miền sông nước Tây Nam Bộ.
Tôi nghĩ, tính chuyên nghiệp của người viết là phải biết nắm bắt, thu thập dữ liệu, và viết đúng sở trường dữ liệu mình đã có. Còn lộc trời. Đấy chỉ là cảm xúc để người viết cho ngòi bút của mình tuôn chảy. Và biết đâu khi tác phẩm đoạt giả cao, thì đúng là lộc trời cho thật.
Cảm ơn ông với những chia sẻ quý báu với bạn đọc, bạn viết Báo Văn nghệ.