Cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 30km, những ngôi làng quanh khu vực các xã Phú Nghĩa, Đông Phương Yên, Trường Yên... thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Nội chủ yếu sinh sống bằng nghề thủ công mĩ nghệ mây tre giang đan. Nếu nói về độ nổi tiếng nhất trong nghề này phải kể đến làng Phú Vinh thuộc xã Phú Nghĩa, ngôi làng có có lịch sử khoảng 400 năm với nghề. Tuy nhiên, ở những làng lân cận, do cũng rất lâu năm người dân chủ yếu lấy nghề làm nguồn sống nên không ít nghệ nhân tài hoa đã khẳng định tên tuổi. Vậy nhưng, với tôi, khi nhắc đến quê ngoại của bố, điều khiến tôi thấy hấp dẫn nhất lại chính là một phong tục có từ lâu đời. Tục ăn tết Cùng.
Tết Cùng chỉ ăn sau Tết Nguyên đán một tháng. Tức là vào ngày mùng Một tháng Hai âm lịch. Từ chiều và đêm cuối cùng của tháng Giêng, nhà nhà tấp nập, cả làng nhộn nhịp gói và luộc bánh chưng, giò lụa, giò mỡ, nấu canh măng miến, dưa hành và chuẩn bị cả câu đối đỏ. Vào ngày Tết này, hầu hết mọi nhà đều con cháu tụ tập đông vui, bạn bè, họ hàng cũng được mời đến. Không khí rất vui vẻ, đúng như các cụ xưa ví: “Vui như Tết”.
![]() |
Tết Cùng được ăn sau Tết Nguyên đán một tháng. Ảnh minh họa từ internet |
Tết Cùng thực chất là cái tết riêng của làng Yên Trường, xã Trường Yên. Tục lệ này bắt nguồn từ một sự kiện có thật, xảy ra vào năm 1883.
Theo tài liệu được sưu tầm về làng Yên Trường của thầy giáo Nguyễn Xuân Vân: Năm 1883, làng An Tràng (nay là Yên Trường) gặp nạn giặc Cờ đen (hắc quân kì). Chúng là tàn quân của Thái Bình Thiên Quốc bên Trung Quốc. Một tướng quân là Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy quân Cờ đen đã từng cùng nhân dân Huế và Hà Nội chống giặc Pháp, nhưng sau hiệp ước Thiên Tân (1883) Lưu Vĩnh Phúc được Triều đình Huế ban thưởng và buộc phải rút về Trung Quốc. Một tướng cướp tên là Quản Đặng cùng đám du thủ du thực và một đám tàn quân cờ đen đã tổ chức cướp phá của nhân dân. Theo lời các cụ cao tuổi, giặc cờ đen đi đến đâu là giết chóc, cướp phá, đốt làng đến đó. Có ngôi làng ở phủ Sơn Tây bị chúng giết tới 800 mạng người. Những ngày cuối tháng Chạp năm 1883, dân làng An Tràng đang tổ chức chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán thì giặc kéo đến đốt làng, giết người, cướp của. Nhiều nhà đang luộc nồi bánh chưng phải đổ hết bánh xuống giếng, xuống ao rồi bồng bế gánh gồng nhau chạy giặc qua các vùng lân cận.
Có một bài thơ được lưu truyền từ ngày đó:
“Cờ đen nó kéo đến đây
Ông Lưu Vĩnh Phúc ngày ngày cầm quân
Cầm hết thiên hạ xa gần
Ai ai cũng phải một lần gian nan…”
Ra giêng, giặc lui, dân làng lục đục kéo nhau về. Tết đã qua, làng mạc tiêu điều, nhưng hoa đào vẫn thắm, bánh chưng vớt từ giếng, từ ao lên vẫn rền ngon, dân làng tổ chức ăn Tết lại, về sau tục gọi là Tết Cùng.
Từ đó đến nay, không năm nào người dân làng An Tràng trước và Yên Trường nay là không tổ chức ăn Tết Cùng. Vào ngày Tết này, ngoài các món ăn truyền thống giống như Tết Nguyên Đán, người An Tràng còn thường làm các món ăn như bánh khúc và nộm bún cá trê.
Tháng Giêng là tháng ăn chơi, các cụ xưa vẫn lấy tháng Giêng để tổ chức hội hè. Và cứ độ vào khoảng 26, 27 tháng Giêng, khi nơi nơi đang tưng bừng không khí lễ hội, thì trên quốc lộ 6 đoạn chạy qua địa phận các xã Phú Nghĩa, Đông Phương Yên, Trường Yên, Thanh Bình…, người ta dễ bắt gặp hình ảnh những cành đào xuân bung nở rực rỡ được người ta chở trên xe máy. Đó chính là những cành đào được trang trí trong nhà cho dịp Tết Cùng. Ra giêng ấm áp, đa số những cây đào dành cho tục Tết Cùng của các nhà vườn đều trổ hoa đồng loạt, phô diễn hết vẻ đẹp ngưng tụ trong một năm của cây. Do đó, đào của Tết Cùng luôn tươi thắm, rực rỡ.
Sau này, tôi mới được biết ở huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình cũng có làng giữ tục ăn Tết Cùng tương tự như quê tôi. Đặc biệt nhất là ở xã Song An. Chỉ khác là người dân Thái Bình ăn Tết Cùng bằng bánh khúc, hay còn gọi là bánh Hú. Họ có câu: “Tết Cả bánh chưng, tết Cùng bánh hú”.
![]() |
Dịp Tết Cùng, đào trổ hoa đồng loạt, phô diễn hết vẻ đẹp ngưng tụ trong một năm của cây. Ảnh minh họa: Pixabay |
Về truyền thuyết Tết Cùng ở Thái Bình, thì tương truyền, vào thời Quang Trung Nguyễn Huệ có tướng quân Đô đài lực sĩ Nguyễn Tất Ứng, người thôn Kiều Thần, Tổng An Lão, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam (nay thuộc thôn Kiều Thần, xã Song An, Vũ Thư, Thái Bình) dẫn quân đi dẹp giặc ngoại xâm đúng vào dịp Tết Nguyên Đán. Sau khi đánh thắng giặc trở về quê thì đã qua Tết, ông muốn khao quân nhưng cuối giêng đầu tháng hai giáp hạt, gạo nếp không đủ nấu xôi. Lúc bấy giờ trên những thửa ruộng, rau khúc đón mưa xuân xanh non mơn mởn, ông nghĩ ra việc hái rau khúc đồ làm bánh. Từ đó thành lệ, cứ Tết Cùng là cả làng hái rau khúc làm bánh. (theo Thanh Vân – Vũ Thư, Thái Bình)
Làng An Tràng xưa nay cũng đồ bánh khúc dịp Tết Cùng. Có thể thời điểm đó, trên khắp các cánh đồng làng, loài rau khúc mọc hoang dưới mưa xuân đang độ mơn mởn, đã trở thành nguyên liệu quý cho một món bánh ngon được dân gian ưa chuộng.
Tục ăn Tết Cùng về sau xuất hiện ở một số thôn làng của các xã lân cận như Đông Phương Yên, Phú Nghĩa, Thanh Bình của huyện Chương Mỹ, Hà Nội… Tôi nghĩ có thể do việc giao lưu văn hóa và kết hôn. Những nàng dâu, chàng rể của An Tràng xưa đã đem tục lệ đẹp của quê nhà đến với quê chồng, quê vợ, rất có thể. Chính vì thế mà quê ngoại của bố tôi cũng có tục đón Tết Cùng. Cũng chính vì thế, những ngày thơ ấu, tôi đã có nhiều kỉ niệm đẹp với cái tết đặc biệt này.
Phạm Thanh Thúy| Báo Văn nghệ