|
Chỉ còn mình tôi trên chiếc xe van trống không cùng cái ba lô JanSport màu tím của mình dưới chân và một đống nhạc cụ lộn xộn phía sau. Tôi mở cửa xe, chợt rùng mình vì lạnh. Tôi có thể nhìn thấy cả hơi thở của mình phả ra ngoài không khí và tôi bước về phía căn nhà nghỉ thiết kế hình chữ L in hoa. Trong bóng tối, nó có màu trắng như phấn. Không khí tĩnh lặng của sa mạc vẫn còn thoảng mùi cơn mưa vừa đi qua. Paul và Zoe đang đứng ngay trước văn phòng, mà thực ra đó cũng chỉ là một ô cửa sổ chống đạn xước chằng chịt được khoét ở phần nhô ra là cạnh ngắn hơn của tòa nhà. Cạnh bên dài hơn chi chít những ô cửa màu trắng có đánh số và những chiếc xe đậu ngay phía trước. Zoe đang hút thuốc còn Paul thì đang cúi gằm người tranh luận gay gắt.
Không đời nào hết chỗ được. Paul nói với tấm kính đầy những vết xước phản chiếu ánh đèn đường, che khuất hoàn toàn mặt người ngồi bên trong. Cái gì, đây là điểm du lịch hút khách sao? Đây là đâu thế, hả?
Victorville, Zoe lên tiếng với giọng khàn khàn, hơi thở của cô phả ra như khói và hơi nước. Người cô nhỏ xíu, có lẽ chỉ khoảng mét năm mươi, trông hệt người lùn khi đứng cạnh Paul.
Thị trường dịch vụ bùng nổ? Paul nói. Ở Victorville này ư?
Tôi nhìn xung quanh và thấy thấp thoáng những chiếc xe đậu ở hầu hết các ô đỗ xe dọc bên này đường gần tòa nhà và có vẻ phía bên kia cũng có một số.
Nghe này anh bạn, nhân viên lễ tân nói, có rất nhiều người qua lại nơi đây. Chỉ còn một phòng, thế thôi.
Chết tiệt.
Paul nói. Mẹ kiếp. Anh đứng dậy và duỗi thẳng chiều cao một mét chín của mình. Giờ thì chúng ta làm gì? Paul nói. Đi tiếp à?
Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi không thể ở chung phòng với Zoe. Giữa họ chẳng có gì mờ ám cả. Paul sẽ chuyển đến Sacramento với bạn gái là Vanessa sau chuyến lưu diễn. Vì vậy, đây sẽ là chuyến lưu diễn chia tay của chúng tôi, ngay cả khi chúng tôi không có nhiều người hâm mộ để nói lời tạm biệt.
Chúng ta có thể ở chung một phòng, tôi nói. Tao không muốn mày ngủ gật khi lái xe và khiến cả lũ cùng chết.
Tao vẫn luôn lái xe cẩn thận mà. Paul nói.
Nhưng, sao không thể ở chung?
Paul nhìn Zoe. Rồi tôi cũng nhìn theo. Cô đứng nhếch hông với vẻ mặt lạnh tanh. Cảm giác như Paul và tôi đang cãi nhau, nhưng ít nhất với nó, tôi biết rõ mối quan hệ của chúng tôi; với Zoe, thì như thể ít nhất 50% con người cô đang bay lơ lửng ở không trung như những quả bóng màu đen bị buộc bởi sợi dây vô hình, ngoài tầm với.
Zoe thả điếu thuốc xuống đất và nó cháy hắt ra những tia lửa. Cô dập tắt nó. Được thôi, cô nói, em sao cũng được. Miễn là em có một trong những chiếc giường.
Nhân viên lễ tân nói chỉ có một giường thôi.
Miễn là em được nằm giường.
Đêm đó, Zoe chui vào chăn và có vẻ ngủ thiếp đi ngay lập tức. Mái tóc dài, dày màu nâu sẫm của cô tràn ra xung quanh gối như mật mía; đôi môi mỏng màu đỏ của cô phát ra những tiếng ngáy. Paul cũng nhanh chóng chìm vào cơn mơ; trong giấc ngủ, nó hoàn toàn im lặng, có lẽ nó quá mệt vì đã nói liên tục không ngừng nghỉ suốt thời gian ban ngày.
Chỉ còn mình tôi. Đầu tôi gối lên chiếc áo khoác da bó lại. Ngay cả khi không có cái cục ở cổ thì cũng đã đủ khó chịu rồi. Mọi âm nhanh nhỏ nhất thoát khỏi sự im lặng đều xếp hàng ngay sau tiếng động phát ra trước đó, và không có tiếng nào trong số chúng nhỏ dần đi. Nhịp thở của Zoe uốn căn phòng thành những hình thù kì lạ khi tôi đang nghiêng ngả trên bờ vực của những giấc mơ. Trong một nửa cơn mê, tôi thấy mình đi bộ trong một thành phố của bóng đêm và tất cả các tòa nhà trước mặt tôi đều được xếp phẳng như một bức tranh, dù tôi tiến lại gần bao nhiêu thì chúng cũng không lớn hơn. Khi mở mắt thì tôi đang nhìn chằm chằm vào bức tường.
Cố gắng nhẹ nhàng nhất có thể, tôi lấy ra một viên Xanax và bình kim loại từ chiếc JanSport màu tím của mình đang nằm cạnh tôi trên tấm thảm sần sùi. Tôi nuốt vội viên thuốc và đẩy nó xuống bằng rượu Old Crow có mùi rất khó chịu rồi cố chợp mắt. Nhưng thay vì khiến tôi buồn ngủ, thuốc chỉ làm dịu tất cả các âm thanh và biến bóng tối thành màu sô-cô-la.
Sau đó, không hiểu tại sao tôi lại chợt nhớ Paul từng nhắc đến học thuyết của một nhà khoa học đã mất từ lâu về các hành tinh. Nhà khoa học này đã tìm ra lời giải cho hiện tượng đôi khi có một số hành tinh di chuyển nghịch hành, nghĩa là dường như chúng ngừng lại và đi theo hướng ngược với quỹ đạo thông thường một thời gian trước khi tiếp tục theo hướng ban đầu. Đó là một ảo ảnh quang học xuất hiện từ vòng quay tương đối của các hành tinh và sự thay đổi vị trí quan sát giữa chúng. Từ góc nhìn bị giới hạn của chúng ta, một hành tinh nào đó có vẻ như đang đi ngược lại, nhưng trên thực tế nó vẫn quay đều đặn, theo nhịp thời gian của vũ trụ. Điều đó đã an ủi tôi trong một khoảnh khắc. Nhưng không đủ để đưa tôi trở lại giấc ngủ. Vì vậy, tôi lại uống thêm một viên Xanax nữa.
Tôi tỉnh dậy, người lạnh cóng và đầu đau như búa bổ, tiếng chuông báo thức ré lên inh ỏi. Như mọi khi, tôi thấy việc thức dậy là điều bất khả thi nhưng vẫn phải dậy.
Trong phòng tắm, khi hơi nước từ vòi hoa sen làm dịu ánh đèn huỳnh quang và khiến thế giới trở nên mờ ảo, những suy nghĩ của tôi lại trở nên sắc nét đối với cơn đau về sự chán ghét chính mình. Có rất nhiều việc tôi có thể kể ra để xác nhận điều đó, nhưng cái chính là suy nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ thành công trong âm nhạc, rằng tốt hơn hết tôi nên ném ước mơ của mình ra ngoài cửa sổ, sống thực tế và giải quyết vấn đề của bản thân, bởi tôi không thể cứ tiếp tục đặt báo thức mãi mãi.
Trong xe, Zoe nói: Bố em sẽ đến xem buổi diễn.
Ồ? Paul nói từ ghế lái.
Ừ, mười năm rồi em không gặp bố.
Chỉ mình tôi nhìn thấy Paul há miệng rồi ngậm lại hai lần, không thể tìm ra điều gì để nói. Cả hai chúng tôi đều biết rằng cuộc sống gia đình Zoe khá bi kịch: Zoe mất anh trai vì dùng heroin quá liều khi con bé mười hai tuổi còn mẹ Zoe mất từ khi cô còn quá nhỏ để có thể nhớ gì đó.
Em thì sao? Tôi nói.
Paul nói: Đừng có mà “therapize”(*) con bé.
Đó còn không phải là một từ có nghĩa. Tôi nói. Không thể là một từ được.
Nó là một từ. Tra từ điển xem.
Tôi vẫn khăng khăng rằng không đời nào đó là một từ. Anh ấy khăng khăng nó là một từ. Tôi lấy điện thoại ra để tra cứu. Zoe im lặng.
“Therapize” thực sự là một từ. Tôi trừng mắt nhìn vào màn hình điện thoại. Sau đó, cố gắng chuyển hướng câu chuyện, tôi quay lại định nói thêm điều gì đó với Zoe nhưng cô đang nằm úp má lên lớp vải dày của một trong những cái túi hình trụ đựng trống của tôi, mắt nhắm nghiền. Tôi chợt nhận ra Zoe ngủ ngày càng nhiều trong suốt chuyến lưu diễn và nói ngày càng ít. Tôi đá chiếc JanSport màu tím của mình vào mép chỗ để chân cho thoải mái hơn.
Paul nói: Thế, nó là một từ à? Tao đúng chứ?
Thị trấn của Zoe là một khu nhà vuông vức tồi tàn nằm tít ngoài sa mạc. Buổi biểu diễn tổ chức tại một quán bar mang phong cách cướp biển có tên Pegleg’s, cái tên khiến người ta có cảm giác như chủ quán chẳng biết gì về cướp biển cả. Nghe có vẻ như một ý tưởng tồi nhưng chúng tôi không thể phản đối Zoe - đây là cuộc hành hương trở về nơi sinh của cô ấy nên không thể thương lượng.
Chúng tôi đến địa điểm biểu diễn trước hai giờ so với thời gian set up. Paul đi vào hỏi xem liệu chúng tôi có thể mang thiết bị vào để sắp đặt sớm được không. Được đồng ý, vì vậy tôi vác bộ trống của mình với đủ các túi cùng hộp đựng vào và dựng nó lên, duỗi chân gấp bằng kim loại và vặn những con tán nhỏ để cố định cymbal (xanh ban) vào giá đỡ. Paul và Zoe dựng ampli của họ và dựa nhạc cụ của họ vào đó.
Khi xong việc, tôi quan sát kĩ xung quanh quán bar. Trên tường là những bức vẽ tàu thuyền, cờ Jolli Roger, một tấm poster “Cướp biển vùng Caribbean”. Tôi thấy những bản sao của bức tranh vẽ một con tàu được treo ở ba vị trí khác nhau trong quán. Thứ duy nhất không liên quan đến cướp biển là máy quay bóng đặt ngay cạnh cửa ra vào. Nó mô tả một gia đình zombie, một dàn nhân vật theo như tôi biết chỉ thuộc về máy quay bóng này. Khi bạn chạm vào một số tấm chắn hoặc những cái chốt nhất định, các thành viên nhỏ trong gia đình người chết sẽ trỗi dậy từ trong nấm mộ và tạo ra những tiếng rên rỉ. Nếu bạn đánh chúng khi chúng đã đứng lên, bạn sẽ được nhiều điểm hơn, và đôi khi chúng lại chết và chui xuống mộ.
Cảm giác như giờ tôi mới chớp mắt sau mấy tiếng đồng hồ và nhìn ngó xung quanh. Không thấy Paul hay Zoe đâu, nhưng có một số người địa phương trông có vẻ tiều tụy, có lẽ là khách quen, đã vào quán trong lúc đó. Tôi ngồi cạnh quầy bar, kế bên một người đàn ông to béo mặc áo phông Slayer và tôi rút tiền ra.
Tôi nghĩ: Mình chỉ cần uống một ly thôi. Hoặc hai ly. Rồi có thể thêm vài ly nữa.
Tôi nghĩ: Mặc dù có vẻ như tôi đang đi lùi, nhưng đó chỉ là vì góc nhìn hạn chế của tôi.
Tôi xoay chiếc ghế đẩu bọc vinyl và hít bầu không khí chua chua mùi bia. Các thành viên của ban nhạc khác chơi đêm đó cũng xuất hiện. Tôi nghĩ họ tên là Crabapple. Tất cả đều mặc đồ đen và có những sợi xích nối từ thắt lưng quần sau túi sau, móc vào ví. Mặt ai cũng đầy khuyên xỏ. Tôi thèm một viên Xanax.
Khi Paul và Zoe cuối cùng cũng xuất hiện, Zoe vẫn có cái nhìn vô hồn thường thấy, nhưng miệng cô ấy dường như nhếch lên nhiều hơn bình thường. Paul trông có vẻ bối rối. Bộ râu đỏ của cậu ta cứ giật giật. Tôi nhận ra mùi tội lỗi từ Paul. Tôi quyết định không bảo Paul đưa chìa khóa xe để đi lấy Xanax trong chiếc túi của tôi. Thay vào đó, tôi gọi thêm một ly.
Buổi diễn đáng lẽ phải bắt đầu trong nửa tiếng nữa. Zoe ngồi ở quầy bar, Paul ngồi bên cạnh. Tôi đợi một lát để họ nói hết những gì họ cần nói hoặc không cần nói với nhau. Sau đó, tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu bên trái Zoe và đặt khuỷu tay lên mặt bàn dính dính.
Vậy thì… Tôi nói rồi nhìn xung quanh. Zoe dụi gì đó ở khóe mắt còn Paul ngáp. Vậy thì… Tôi lặp lại. Không có nhiều người lắm nhỉ?
Chưa. Paul nói.
Ừ, nếu không có gì khác thì chúng ta có thể coi đây là một buổi tập. Tôi nói.
Bố em sẽ đến. Zoe lặp lại lần nữa.
Tôi đồng ý với Zoe. Tôi hỏi Zoe có muốn uống gì không, tôi sẽ trả tiền. Cô hỏi họ có Moscow Mules không. Tôi vẫy tay gọi người pha chế. Ông ta là một ông già đội mũ lưỡi trai ngư dân. Bộ râu dài màu xám của ông được tết bím và dài đến ngay giữa chỗ tôi tưởng tượng là những núm vú nhỏ xíu đã teo tóp của ông, bên dưới chiếc áo phông xám in hình con cá hồi đang nhảy. Làm sao một người đánh cá lại đến được Inland Empire thì ngoài sức tưởng tượng của tôi. Ông có Moscow Mules không? Tôi hỏi ông ấy.
Chắc chắn rồi. Ông ấy nói.
Chúng tôi nói với ông ấy rằng chúng tôi là thành viên của ban nhạc, nhưng ông ấy chỉ nói “Được rồi” và tính tiền chúng tôi với giá bình thường. Paul gọi một ly Guinness, Zoe gọi một ly Mule và tôi gọi một ly PBR. Chúng tôi cùng nhau uống.
Sau đó, đến giờ biểu diễn của ban nhạc chúng tôi. Ban nhạc Crabapple ngồi cách chúng tôi vài chiếc ghế đẩu và cứ nhìn chằm chằm sang chúng tôi.
Zoe… Tôi nói. Em có nghĩ, có lẽ, chúng ta nên bắt đầu không?
Bố em chưa đến.
Em đã nhắn tin cho ông ấy chưa?
Em đã gọi cho ông ấy trước đó. Nhắn tin cho ông ấy khoảng một tiếng trước.
Có phản hồi nào không?
Không, nhưng ông ấy chưa bao giờ giỏi khoản đó.
Paul nói: Này CJ, bình tĩnh đi. Cậu ta giơ tay và vẫy nó lên xuống.
Không sao đâu. Nhưng hãy cho bố em thêm chút thời gian. Ông ấy sẽ sớm đến thôi.
Cứ vài người bước vào, đầu Zoe lại hướng về phía đó, rồi quay lại.
Cuối cùng, vào mười giờ ba mươi, ban nhạc kia đến chỗ chúng tôi và giọng ca chính, một anh chàng tóc nâu dài đến mông, đeo một chiếc khóa thắt lưng bạc bự chảng, nói. Này, mấy người có nghĩ có lẽ nên bắt đầu không?
Tôi nói: Mày có nghĩ, có lẽ, mày nên cút đi không?
Chúa ơi CJ… Paul nói. Mày đã uống bao nhiêu rồi? Bình tĩnh lại đi.
Nhưng tôi không thể vì chiếc JanSport màu tím của tôi đang nằm trên xe.
Không sao đâu. Zoe nói. Chúng ta có thể bắt đầu bây giờ.
Chúng tôi bước lên sân khấu và họ giảm đèn, nhưng không đủ tối để che đi sự thật rằng chỉ có mười hai người ở đó, bao gồm cả nhân viên pha chế và ban nhạc chính (mà đó lại là một ban nhạc lớn). Chúng tôi bắt đầu biểu diễn.
Chúng tôi mở màn bằng một điệu trống nhanh trong vài nhịp, sau đó là một khoảng lặng mỏng manh, trước khi tiếng bass và tiếng đàn guitar dồn dập xuyên qua khoảng lặng mỏng manh đó như những thanh gỗ to và nặng đập tan khung cửa. Khi chơi, tôi bắt đầu phiêu thấy những tiếng ồn do trống tạo ra và những tiếng ồn do guitar và bass tạo ra theo một cách nào đó là giống nhau.
Đến một lúc nào đó, chúng tôi hoàn toàn bỏ qua phần điệp khúc, tất cả chúng tôi cùng nhau quyết định kéo dài phần chuyển tiếp và để Paul solo lâu hơn. Zoe nhìn cậu ấy, và lần đầu tiên tôi nghĩ mình biết cô ấy đang nghĩ gì. Tôi có thể thề rằng tôi đã thấy khoảnh khắc Zoe nhận ra rằng, dù cho bất kể chuyện gì đã xảy ra giữa cô và Paul, cô vẫn thấy vui vì anh sẽ rời đi, bởi khi ấy cuộc sống của cô buộc phải thay đổi. Khi thấy điều này, tôi chợt nhận ra mình sẽ nhớ cậu ấy và cũng sẽ không còn được gặp Zoe nữa.
Xung quanh chúng tôi, quán bar sáng rực như một nhà thờ chứa đầy âm nhạc. Âm nhạc là tất cả.
Và rồi mọi thứ kết thúc.
Đan Ngọc | Báo Văn nghệ
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh đăng trên tạp chí Narrative.
------------
Bài viết cùng chuyên mục: