Tặng anh Nguyễn Kim Bằng
Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn lão Hai thu que đóm cháy nhập nhòe trong chiếc nón rách tất tả đi từ nhà bếp lên, và mụ Hai ngồi ngây thuỗn cái mặt trước đĩa đèn dầu lạc lẩm bẩm tính những tiền cua, tiền bún, tiền kẹo, tiền đỗ thì lão Hai vùng dậy sang bên gian cậu Giáo nói chuyện.
Không hiểu sao cứ đến lúc ấy lão Hai lại thấy buồn. Nằm nghe tiếng súng dội trong đêm tối và nhất là cái tiếng rì rầm tính toán tiền nong của mụ vợ, tự nhiên lão sinh ra nghĩ ngợi vẩn vơ, nó cứ bực dọc làm sao ấy. Mà lão thì lão không thích nghĩ ngợi như thế một tý nào. Lão phải đi chơi cho khuây khỏa. Lần nào cũng thế, cứ vừa nhô đầu qua cái mái lá gian cậu Giáo là lão hỏi ngay:
- Thế nào! Báo hôm nay có gì không cậu? - Không đợi trả lời, lão nói luôn - Này Đác-giăng-li-ơ nó lại mới về Pháp đấy nhé. Hừ, chơi vào! Còn à đi đi về về ạ! Hoặc: Đêm qua ta lại đột kích vào bãi tàu bay Gia Lâm. Thảo nào cả ngày hôm nay chẳng thấy bóng vía cái nào cả. Hoặc: Báo Cứu Quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn Độc lập và Thống nhất thôi. Không thì dân ta đánh đến cùng... Thật đấy! Chuyến này mà không được Độc lập thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục phải không cậu?
Rồi lão kể chuyện tản cư, chuyện Tây khủng bố, chuyện Việt gian, chuyện thổ phỉ, những chuyện lão lượm được hồi trưa ở ngoài điếm. Cả chuyện chính trị, quân sự nữa. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia; ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác, rất trơn tru, rất thành thạo, mà chẳng đâu vào đâu cả. Cậu Giáo khen thì lão kéo nhằn một bên ria mép, nhũn nhặn:
- Cũng là học lỏm cả đấy thôi, cậu ạ... Mấy lị chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà.
Và cuối cùng lúc câu chuyện tin tức hằng ngày đã nhạt rồi, thì lão xoay đến chuyện cái làng của lão. Lão nhắc lại cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Lão khoe làng lão có cái phòng Thông tin tuyên truyền sáng sủa đẹp đẽ nhất vùng, có cái tranh Cụ Hồ to bằng chiếc chiếu, hình như đâu mua từ Thủ đô Hà Nội cũng ba trăm bạc. Lão khoe làng lão nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, những đường trong làng lát đá xanh trời mưa gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối ngã không bao giờ bùn dính được đến gót chân. Tháng Năm ngày mùa phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng. Không có bao giờ có hạt thóc đất nào!
Lão Hai hay có tính khoe làng như thế xưa nay. Hồi đế quốc Pháp. Mỗi bận đi đâu xa, khoe làng lão chỉ khoe cái sinh phần của viên Tổng đốc làng lão. Lão có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm:
- Chết! Chết! Tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại như cái lăng cụ Thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ Thiếu Hà Đông nhiều cơ mà.
Và mỗi bận có khách bên họ ngoại ở dưới Nam lên chơi, là thế nào lão cũng phải dắt ra xem lăng cho kỳ được. Lão mê man giảng giải cho họ: cái tượng đá này là ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là Bát Tiên quá hải. Cái ông đắp bằng xi măng lù lù ở giữa cái hồ bát giác kia là lấy kiểu tận bên Cao Miên ở chùa “Đế Thích”. Còn như cái cọc sắt nhọn hoắt, cắm vào cái bầu rượu có đắp bốn con dơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần kia ấy là máy thu lôi. Khiếp lắm! Sấm sét là thu tất cả vào trong ấy.
- Chả nguyên là “cụ tôi” phòng sau này có nằm xuống, bất hạnh sét có đánh vào cũng không việc gì. Xem! Trí lực của người ta có khiếp không?
Nhìn cái bộ mặt ngây độn của những người bên ngoại ấy giãn ra vì kinh ngạc là lão hả hê cả lòng. Lão thấy cái lăng ấy một phần như có lão. Nhưng từ sau ngày khởi nghĩa thì tuyệt nhiên người ta không còn thấy lão nhắc đến cái lăng ấy nữa. Lão quên phắt nó đi. Bây giờ khoe làng lão lại khoe khác. Lão khoe những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà lão gia nhập phong trào từ “hồi kỳ còn bóng tối”. Những cuộc mét tinh, những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão, có những cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai, mà mỗi lần hô động tác anh huấn luyện viên phải đệm tiếng “ạ, ạ”... thườn thượt đằng sau, như “Nghiêm ạ ạ!... Nghỉ ạ ạ!!! Vác súng lên vai ạ ạ!...” cẩn thận. Nhất là những ụ, những hố, những hào, giao thông của làng lão thì làm công trình không để đâu hết. Lão kể rành rọt từng cái một, cái thì đắp ở đầu xóm ba khu, cái thì xây ở trước Văn chỉ, cái thì xẻ thông từ đầu phố trên xuống tận đầu phố dưới. Cửa mạch thì nhà nào cũng đục, có thể đi chơi suốt làng không cần phải ra đến đường cái.
Cũng có khi lão lại kể lể những chuyện ngày xửa, ngày xưa nào không biết: lão uống rượu ở nhà ông ấy, ông nọ say khướt có thằng lính lệ trên phủ về, không biết có công việc gì, nó lại ngoảnh vào hoạnh chủ nhà sao lại được uống rượu ngang, nóng mắt lão đánh cho nó mấy cái bạt tai rồi chửi cho một trận nên thân, cu cậu ngượng chỉ vào mặt lão dọa “Rồi mày biết tay ông!” rồi lủi mất. Cả xóm ai cũng kêu lão tợn và cứ sợ giùm cho lão. Thế mà rồi cũng chẳng sao cả. Hoặc cái Văn chỉ sau chùa, trước vẫn có mấy thằng ăn mày ở đấy sì sụp thổi nấu, rác rưởi ngập ngụa lên, bây giờ làng sửa lại cao ráo sạch sẽ làm chỗ khai hội và phòng đọc sách...
Lão cứ ngồi vén quần lên tận bẹn trên chiếc chõng tre nhà cậu Giáo mà nói liên miên hết cái đường xóm này tốt, đến cái giếng xóm kia trong, với những chuyện đẩu chuyện đâu về cái làng của lão, làm như cậu Giáo cũng quen biết và cũng bận tâm đến những thứ ấy lắm.
Thực ra lão chỉ nói cho sướng miệng và cho đỡ nhớ cái làng của lão, chứ lão cũng chẳng để ý gì người nghe có thích nghe lắm không. Đôi khi thấy mình mải nói quá, mà cậu Giáo thì hình như lơ đễnh những đâu đâu, lão lại nhắc:
- Cậu vẫn nghe đấy chứ?
Thì cậu Giáo giật mình trả lời vội vàng:
- Có! Có! Tôi vẫn nghe đây! Ông kể nốt đi.
Thế là lão yên trí, lại vui vẻ kể tiếp...
Nhưng cũng có nhiều bận, đang nói say mê như vậy bỗng dưng lão ngắc lại, mặt thần ra nghĩ ngợi một lúc lâu, lão thủ thỉ:
- Chuyến này đi năm năm, ba năm hay mươi mười lăm năm không hề biết có về được đến làng đến nước nữa không đây?
Lão im lặng rồi tiếp:
- Nó chết một cái nhà tôi neo người quá phải đi, chứ những như một mình tôi thì tôi nhất định ở lại làng cùng anh em cơ đấy cậu ạ!...
Thực tình lão Hai không muốn tản cư lên trên này một tý nào. Trong làng còn có một số anh em ở lại, họ quây quần với nhau trong một khoảng chừng năm, sáu nóc nhà ở giữa làng. Ngày ngày cùng anh em đi đào đường, đắp ụ, mải vui công việc lão chẳng còn tưởng gì đến vợ con nhà cửa nữa. Năm bảy tin mụ Hai nhắn về thúc phải lên ngay, ông chỉ nhe bộ răng cải mả ra cười:
- Kệ! Còn bận chưa lên được.
Hôm mụ Hai thân chinh đi bộ ba, bốn chục cây số về đón, lão đã toan không đi. Lão nghĩ: mình sinh sống ở cái làng này từ thuở chôn rau cắt rốn đến giờ. Ông, cha, cụ kỵ mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ phải cái lúc hữu sự như thế này, nhất đán mình lại bỏ làng mà đi, như thế chả hóa ra con người không biết nghĩ ư? Lão không đành lòng. Với lại, được cùng anh em ở lại giữ làng lão thấy mình có cái hãnh diện được lo toan, được có phận sự ở trong làng. Công việc là công việc chung chứ của riêng mình ai?
Lão bảo mụ vợ:
- Tao thì tao không đi được đâu. Mẹ con mày trên ấy liệu bảo nhau xoay xỏa làm ăn. Có neo người thì mượn lấy thêm một đứa ở. Tản cư thì cũng phải thiếu thốn một tý chứ, lại như ngày trước thì có đâu!
Nhưng mụ Hai khóc lóc, nằn nì bắt lão phải đi. Mụ bảo:
- Thế ông định bỏ mẹ con tôi chết cả nút à? Ông phải lên trông nom chúng nó cho tôi xoay xỏa chứ! Mượn người thì lấy tiền đâu?
Rồi mụ khẩn khoản với mọi người nhờ nói giùm hộ để “ông nhà tôi” đi. Lão Hai đành phải nghe theo. Lão buồn khổ lắm nhưng cũng không biết làm thế nào. Tình cảnh mẹ con chúng nó quả có gieo neo thật. Một nách ba đứa con dại, vốn liếng lại chả có cứ nhong nhóng ôm con ở nhà thì lấy gì mà ăn? Nhà có người đàn ông nó như nhà có nóc ấy. Lão lên thì cũng chẳng được việc gì đâu. Nhưng không có lão không xong. Lấy ai ôm trẻ cho mà làm hàng làm họ? Lão biết chứ có phải không đâu. Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh me được thì tản cư cũng là kháng chiến.
Lão ngủ lại chuyện trò cùng anh em một đêm, rồi sáng hôm sau hai vợ chồng đi từ lúc mới mờ đất...
Những ngày đầu ở trên này lão Hai ít nói ít cười. Cái mặt lúc nào cũng lầm lầm lì lì, hơi có điều gì khác ý là lão thét lác, đập phá toáng lên. Lắm khi chuyện chẳng đâu vào đâu lão cũng khơi ra cho to để gây sự với vợ:
- Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông nó vừa vừa chứ! Ông thì giết hết. Ông thì giết hết!
Nhưng lão cứ bước chân ra khỏi cái gian nhà tối thấp và bộn lên những hòm, những nồi niêu với những dây quần áo ẩm sì ấy là mặt lão nhẹ nhõm tươi hẳn lên. Sao mà lão sợ cái gian nhà ấy thế! Ngày lại ngày quanh ra quanh vào trông con cho vợ ra quán bán hàng, chẳng có công việc gì mà cất nhắc lão càng bực dọc cáu cẳn. Nhất là những buổi trưa nắng, im vắng, oi ả, có tiếng mụ chủ nhà nói nheo nhéo ở bên ngoài, thì lão không sao chịu được. Giá cứ cà khịa, cãi nhau với mụ toáng lên còn dễ chịu hơn.
Thật tình, lão Hai chưa thấy người đàn bà nào lại tinh quái tham lam như mụ ta. Người thì gầy đét như thanh củi khô. Cái mồm thì mỏng lèo lèo, nói cứ liến đi, mà chúa thần là gian. Không vào trong nhà thì thôi, động vào nhà là nhòm. Mụ nhòm xó này một tý, nhòm xó kia một tý, rồi lục. Mụ giơ lọ tương lên ngắm rồi đặt xuống; mụ mở thạp gạo ra xem lại đậy vào, mụ lục bồ moi chiếc áo ra ướm thử vào người rồi vứt trả. Hình như trong ý mụ, mụ nghĩ: chúng mày ở nhờ nhà tao, thì những thức của chúng mày cũng như của tao. Mà đúng như thế, những đồ ăn thức dùng của mụ, mụ cất kỹ đi. Cái dao cái chậu, bó củi của người ta mụ đem dùng tự nhiên. Hễ cất mụ lại lôi ra. Không tìm thấy thì mụ nói móc nói máy như chính mụ bị người ta ăn hiếp mụ, đến cả cái ăn cái uống mụ cũng dây phần vào. Nhà động có thức gì mụ đã biết rồi. Không một hôm nào ở quán về mụ không sấn đến vạch thúng ra xem:
- Ơ nhà này nó có mớ cá ngon gớm, chiều tớ phải xin một bát mới được.
Thế là chiều mụ sai con bưng bát đến xin. Mụ đẩy lưng thằng bé:
- Con cứ xuống mà xin, tội gì.
Có cái gì ăn giấu, mà mụ biết thì mụ đánh hơi. Mụ đứng giữa nhà, hếch cái mũi lên hít hít:
- A! Có cái gì mà thơm gớm, y như mùi bánh rán ấy anh em ạ! Mẹ kiếp nhà này nó giấu!
Và cứ lâu lâu, mụ lại vay tiền. Lúc mua trầu vỏ, lúc mua diêm thuốc, lúc mớ rau, con cá... Có đòi thì mụ chủng chẳng:
- Tớ trừ vào tiền thuê nhà đấy.
Rồi mụ cười rất nhạt:
- Nói đùa đấy chứ, mai tớ cuốc mẻ sắn tớ bán tớ khắc trả. - Và mụ tiếp luôn - Này! Nói thì bảo tham. Nhà cái lão Hai này, với cậu Giáo bên kia ở, thật tớ đếch được cái gì. Đằng xóm dưới cánh hàng xáo họ ở, họ nuôi lợn được vô khối là “khuẩn”. Nhà quê chúng tớ cho ở nhờ chỉ chú có mỗi cái khuẩn thôi...
Ngay từ dạo mới lên, lão Hai đã bực mình với con mụ ấy lắm rồi. Năm lần bảy lượt ông bảo vợ dọn nhà đi nơi khác. Nhưng bà Hai cứ lần chần. Bà bảo:
- Biết rằng đâu hơn đâu, hay là lại quá tội. Mấy lị bây giờ trong làng ngoài phố, nhà nào cũng ba, bốn bếp tản cư chập chội cả. Có được chỗ chui ra chui vào như thế này là may mắn lắm rồi còn gì nữa.
Lão đành phải dùng dằng chờ vậy.
... Buổi trưa hôm ấy, lão Hai ở nhà một mình. Con bé lớn gánh hàng ra quán cho mẹ vẫn chưa thấy về. Hai đứa bé thì ra vườn chơi. Lão nằm vắt tay lên trán mà nghĩ vẩn vơ về cái làng của lão, đến những ngày làm việc cùng anh em. Ồ, sao mà độ ấy vui thế. Lão thấy mình như trẻ ra như họ. Cũng hát hỏng, cũng bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày chả kém gì họ. Trong lòng lão lại thấy náo nức hẳn lên. Lão lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Không biết cái chòi gác ở đầu làng họ đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc là còn khướt lắm. Chao ôi! Lão thèm có công việc quá. Chẳng việc to thì việc nhỏ, miễn là có công việc mà làm.
Bên ngoài, ánh nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa, có mấy tiếng gà trưa cất lên eo óc. Cái gian nhà ấy càng như lịm đi, mờ mờ hơi đất. Giờ này là con mụ chủ sắp đi làm đồng về đây. Lão lại sắp phải nằm trong này mà nghe mụ chửi con mắng cái, kêu vại nước chóng cạn, cái bếp bừa bộn nheo nhéo lên đây.
Cái liếp che cửa bỗng kêu lạch xạch, gian nhà sáng bừng lên. Ông Hai giật mình ngóc đầu dậy. Đứa con gái lớn gồng đôi thúng không ở ngoài bước vào.
- Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày?
Không kịp để con bé trả lời, lão vơ lấy cái nón nói luôn:
- Ở nhà trông em nhá! Đừng có đi đâu đấy. - Lão giơ tay trỏ lên trên nhà nói khẽ - Nó thì lôi ruột ra nghe chửa.
Trời xanh lồng lộng có những tảng mây sáng chói lừ lừ. Đường vắng hẳn bóng người qua lại. Họ rạt cả vào các khoảnh bóng cây. Một vài tiếng động nhẹ khẽ gợi lên oằn oại oi ả. Lão Hai đi nghênh ngang giữa đường vắng, cái đầu cúi lả về phía trước, hai tay vung vẩy, nhấp nhổm. Gặp ai lão cũng níu lại:
- Nắng này là chúng nó bỏ mẹ chúng nó!
Có người bỡ ngỡ hỏi lại “Chúng nó nào?” thì lão bật cười giơ tay trỏ về phía tiếng súng:
- Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi xe tăng giờ bằng ngồi tù.
Dứt lời lão lại vội đi như đang bận việc lắm. Cũng như mọi hôm, việc đầu tiên lão vào phòng thông tin nghe đọc báo. Lão cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này lão khổ tâm hết sức. Lão cũng đã có học được một khóa bình dân học vụ ở làng, cũng đã biết đọc biết viết. Nhưng chữ in khó nhận mặt chữ, lão đọc nó cứ bập bõm câu được câu chăng, mà chả lẽ cứ nghếch cổ lên giữ chịt lấy tờ báo không cho người khác xem nữa? Ông ghét thậm những anh cậy ta lắm chữ đây, đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không chịu đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy.
Hôm nay may quá, vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc và rành rọt từng tiếng một. Cơ chừng anh ta cũng mới học, thành ra đánh vần được chữ nào, anh ta đọc luôn chữ ấy như thể cho tất cả những người ở trong phòng thông tin này biết rằng anh ta biết chữ đây. Lão nghe chẳng sót một câu nào. Bao nhiêu là tin hay. Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa. Đấy! Cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa? Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặt, hết đạn, anh đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng làm chết thêm mấy tên nữa. Đội du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Thế mà cứ bảo người mình nhát như cáy. Đáo sự ra cũng gan chí mề. Kém gì Nhật! Lại còn bao nhiêu tin đột kích nữa. Chỗ này giết được bảy Pháp với bốn Việt gian; chỗ kia giật mìn phá đổ một xe tăng và một xe díp. Cứ thế, chỗ này giết một tý, chỗ kia giết một tý. Cả súng ống cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm. Ruột gan lão cứ múa cả lên, vui quá!
Lão khấp khởi bước ra khỏi phòng thông tin, tạt vào quán hỏi han tào lao mụ vợ mấy câu rồi đi thẳng ra cổng huyện cũ. Những người tản cư đứng ngồi lố nhố dưới mấy gốc đa xù xì, cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. Ông lão ngồi vào một cái quán gần đấy. Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, lão chép chép cái miệng ngẫm nghĩ: bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc lão. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của bọn đi phá hoại về râm ran lên. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt uốn quanh co dưới trời nắng lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay rập rờn...
- Các ông các bà ở đâu ta lên đấy ạ?
Lão Hai đặt bát nước xuống chõng hỏi. Một người đàn bà mau miệng trả lời:
- Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn, năm hôm nay mới lên đến đây, vất vả quá!
- Ở Gia Lâm lên ạ? Lúa má dưới ta thế nào? Liệu có cấy hái được không bác?
- Chả cấy thì lấy gì mà ăn. Cấy tất ông ạ. Chân ruộng dưới chúng cháu còn tốt hơn trên này nhiều.
Lão rít một hơi thuốc lào nữa, gật gù cái đầu. Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư, phá hoại cứ phá hoại... Hay đáo để.
- Này bác có biết súng mấy hôm nay nó bắn ở đâu mà dữ thế không?
Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào:
- Nó rút ở Bắc Ninh về, nó vào làng chợ Dầu nó khủng bố ông ạ.
Lão Hai quay phắt lại cuống quýt hỏi:
- Nó... Nó vào làng chợ Dầu hử bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?
Người đàn bà ẵm con cong môi lên, đỏng đảnh:
- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa?
Cổ lão nghẹn ắng lại. Hồi hộp. Da mặt tê rân rân. Lão lặng đi một lúc, rồi rặng è è nuốt một cái gì vướng ở cổ, cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi khàn khàn:
- Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại...
- Thì tôi ở vùng ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam nhông, đưa vợ con ra Hà Nội.
Có người hỏi:
- Sao bảo làng chợ Dầu phong trào lắm cơ mà?...
- Ấy thế mà bây giờ đốn thế đấy...
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng cười nhạt rồi vươn vai nói to lên:
- Hà, nắng gớm, về nào...
Lão vờ vờ lảng ra chỗ khác một chút rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao, hỗn độn của đám người ấy vẫn dõi theo. Ông vẫn nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó chứ! Đói khổ, ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái thứ Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Lão Hai cúi gằm mặt xuống mà đi, lão thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
Về đến nhà, lão nằm vật ra giường. Mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lén đưa nhau ra thềm chơi sậm sụi với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt lão cứ tràn ra... Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy à? Chúng nó cũng bị thiên hạ người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn bằng ấy tuổi đầu... Lão nắm chặt hai tay lại rít lên:
- Khốn nạn! Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian để nhục nhã thế này!
Lão bỗng ngừng bặt, ngờ ngợ như nhời mình không được đúng lắm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến như thế được. Lão kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần, có nhân cách cơ mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại làm cái điều điếm nhục ấy!... Nhưng sao lại nảy ra cái tin như thế? Mà thằng chánh Bệu thì đích thị là người làng lão không sai rồi. Không còn bịa tạc được nữa. Chao ôi! Cực nhục chưa cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước... Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?
Chiều hôm ấy, mụ Hai về cũng có vẻ khác. Mụ bước từng bước uể oải, cái mặt cúi xuống bần thần. Đôi quang thúng thõng thẹo trên hai mấu đòn gánh. Mụ đi thẳng vào trong nhà lúi húi xếp hàng vào một xó, rồi lẳng lặng ra bậu cửa ngồi ôm má nghĩ ngợi. Trẻ con cũng chẳng đứa nào dám vòi quà. Trong nhà có cái im lặng thật là khó chịu. Không ai dám cất tiếng lên nói. Cả đến nhìn nhau họ cũng không dám nhìn nhau nữa.
Mãi tới khuya, mụ Hai mới chống tay đứng dậy. Mụ lẳng lặng xuống bếp châm lửa lấy, tính tiền hàng. Vẫn cái giọng rì rầm thường ngày. Có khác là đôi khi mụ lại ngạc nhiên mặt thần ra nghĩ ngợi:
- Này thầy nó ạ.
Lão Hai vẫn nằm rũ ra ở trên giường không nói gì.
- Thầy nó ngủ rồi à?
- Gì?
Lão khẽ nhúc nhích.
- Tôi thấy người ta đồn...
Lão gắt lên:
- Biết rồi!
Mụ nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt. Ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của mụ. Tiếng thở đều đều của ba đứa trẻ châu đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà.
- Thế nhưng, người ta đồn trên này người ta không chứa những người chợ Dầu nữa, thầy nó ạ.
Nghe ngóng một chút, không thấy chồng trả lời, mụ lại cúi xuống lầm bầm tính. Nét mặt lặng đi, chịu đựng và nhẫn nhục. Bên gian cậu Giáo đi ngủ từ lâu rồi, chung quanh đều im ắng... Một vài tiếng chó nhúc nhắc sủa phía xa, và có tiếng trẻ khóc văng vẳng trong tiếng gió...
Lão Hai vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Lão hết giở mình bên này lại giở mình bên kia, thở dài. Chợt lão lặng hẳn người đi, chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được... Có tiếng nói léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ... Mụ nói cái gì thế này? Mụ nói cái gì thế này? Trống ngực ông lão đập dồn dập, lão lắng tai nghe ra bên ngoài hồi hộp... Mụ Hai bỗng lại cất tiếng:
- Thầy nó ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã.
Ông Hai bật ngóc đầu dậy, giơ tay trỏ lên nhà trên, lão sít hai hàm răng lại.
- Im! Khổ lắm! Nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ.
Đoạn lão lại ngả mình nằm xuống vắt tay lên trán nghe ngóng...
Đã ba, bốn hôm nay lão Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên cậu Giáo lão cũng không dám sang. Suốt ngày lão chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Nghe ngóng xem “binh tình” bên ngoài ra sao. Một đám đông xúm lại, lão cũng để ý. Dăm bảy tiếng cười nói xa xa lão cũng chột dạ. Lúc nào lão cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến chuyện ấy. Cứ thoáng nghe những tiếng “Tây”... tiếng “Việt gian”, tiếng “cam nhông”... là lão lủi ra một góc giường nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! Nhưng còn cái này nữa mà lão sợ, có lẽ còn ghê hơn cả những tiếng kia nhiều. Ấy là mụ chủ nhà. Từ ngày xảy ra chuyện ấy, hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng lão khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích. Sáng chiều bốn buổi đi làm đồng, mụ kéo lê cái nạo cỏ quèn quẹt dưới đất, qua cửa, mụ nhòm vào nói những câu bóng gió xa xôi, như khía vào thịt lão. Thôi thì bây giờ thế nào mà chả phải chịu. Có được chỗ mà ở là may lắm rồi. Mỗi lần mụ nói lão chỉ cười gượng làm như không biết gì. Lão thì muốn thế nhưng mụ chủ nhà có để cho chúng yên đâu.
Sáng hôm nay, lúc bà Hai sắp sửa quang gánh ra hàng thì mụ chủ nhà ở nhà trên xuống. Mụ đứng giạng háng ở ngoài sân nói chõ vào:
- Bà lão chưa đi hàng cơ à? Muộn mấy?...
- Chưa bà ạ. Mời bà vào chơi trong này!
- Vâng bà để mặc em... À bà Hai này!... Mụ chạy sát vào bực cửa, thân mật: Trên này họ đồn giăng giăng, rằng làng dưới nhà ta đi Việt gian theo Tây, ông bà đã biết chưa nhỉ?... Họ bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở nữa.
Mụ chủ chẹp miệng giọng ngọt xớt:
- Em cứ khó nghĩ quá... Ông bà cũng là người làm ăn tử tế cả. Nhưng mà có lệnh, biết làm thế nào. Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác vậy... Này ở với nhau đang vui vẻ, ông bà dọn đi em lại cứ nhớ đáo để đấy nhớ.
Mụ Hai cúi mặt xuống rân rấn nước mắt, mụ nói:
- Vâng... Thôi thì Chính phủ đã chả cho ở nữa, chúng tôi cũng đành phải đi nơi khác chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho vợ chồng chúng tôi vài ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, chúng tôi cũng không biết là đi đâu...
Mụ chủ đi rồi, mụ Hai và con bé nhớn cũng gánh hàng ra quán.
Lão Hai ngồi lặng trên một góc giường. Bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con lão mà đi bây giờ?... Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không gì một cái đất Thắng này. Ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao Thượng... đâu đâu có người chợ Dầu trú ngụ người ta cũng đuổi như đuổi hủi.
Hay là quay về làng?...
Vừa chớm nghĩ đến vậy, lập tức lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức cũng là phản quốc, là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Lão nghĩ ngay đến mấy thằng kỳ lý chuyên môn khua khoét ngày trước lại ra vào hống hách ở trong cái đình. Và cái đình lại như của riêng bọn chúng, lại thâm nghiêm ghê gớm, chứa toàn những sự ức hiếp, đè nén nọ nạt. Ngày ngày chúng dong ra, dong vào, đánh tổ tôm mà bàn tư việc làng với nhau ở trong ấy. Những hạng cùng đinh như lão có đi qua cũng chỉ dám liếc trộm vào, rồi cắm đầu xuống lui lủi đi. Lão nghĩ mà rợn cả người. Từ ngày Tổng khởi nghĩa đến giờ lão đã được đi lại, ra vào tự do trong cái đình ấy như mọi người. Lão không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra lão mất hết à? Lão lại cam tâm làm thằng bạch đinh ăn không có quyền ăn, nói không có quyền nói à? Không, không thể nào về được! Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù. Giết hết chúng nó đi! Phá tan tành cái làng ấy đi! Triệt hạ! Triệt hạ hết!...
Nước mắt lão ứa ra ròng ròng trên gò má. Lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
- Là con thầy mấy lị u con đẻ.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố. Nó trả lời khe khẽ:
- Có.
Lão Hai ôm khít thằng bé, một lúc lâu. Lão lại hỏi:
- A thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Nó giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa.
Anh em đồng chí biết cho bố con lão.
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con lão.
Cái lòng bố con nhà lão là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi lần nói ra được vài câu như vậy, nỗi khổ trong lòng lão cũng vời vợi đi được đôi phần.
Khoảng ba giờ chiều hôm ấy có một người đàn ông đến chơi nhà lão Hai. Hắn cũng là người làng chợ Dầu. Đâu như hắn là cháu gọi lão Hai bằng chú. Hai người đứng thì thầm ở góc nhà một lúc lâu rồi thấy lão Hai tất tả đóng khăn áo chỉnh tề tất tả theo hắn đi. Lão vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà.
Lão đi mãi đến sẩm tối mới về. Cái mặt buồn chảy mọi ngày rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu. Cặp mắt hung hung đỏ hấp háy... Vừa đến ngõ, lão đã lên tiếng:
- Chúng mày đâu cả rồi ra thầy chia quà cho nào.
Lũ trẻ ở trong nhà ùa ra lão vội dúi cái gói bọc lá chuối khô cho con bé lớn:
- Bánh rán đường đấy, chia cho em mỗi đứa một cái.
Dứt lời lão lại lật đật đi thẳng sang bên gian cậu Giáo. Chưa đến cửa lão đã bô bô:
- Cậu Giáo làm gì đấy! Tây nó đốt nhà tôi rồi cậu ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết... cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.
Cậu Giáo chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, lão đã lại đùng đùng bỏ lên nhà trên.
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính... cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!
Cũng được bằng ấy câu lão lại bỏ đi nơi khác. Còn phải kể cho người khác biết chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người như một sự đắc thắng vinh dự. Ai cũng mừng cho ông lão.
Đến cả mụ chủ nhà là người lão yên trí thế nào mụ cũng sa sầm mặt xuống, trái lại mụ lại tỏ vẻ rất vui sướng như mọi người, mụ reo lên:
- Thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy... Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết là bao nhiêu. Mụ cười
khí khí:
- Rồi cũng phải nuôi lấy con lợn... mà ăn mừng chứ...
Lão Hai cười gật gật:
- Được, được, chuyến này rồi phải nuôi chứ...
Tối hôm ấy, lão Hai lại sang bên gian cậu Giáo, lại ngồi trên chiếc chõng tre vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của lão. Lão kể lại hôm Tây vào khủng bố; chúng nó có bao thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân, tự vệ làng lão bá trí, cầm cự ra sao; rành rọt tỉ mỉ như chính ông lão vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật...